TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH GIẢI DIỄN NGHĨA - TẬP 33

Chủ giảng: LÃO PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
*****
Trưởng ban biên dịch: TK. Thích Đồng Bổn
QUYỂN 4
(Tập 31-40)
TẬP 33
Giảng ngày 08 tháng 5 năm 2010 Tại Tịnh Tông Học Viện Úc Châu
Biên dịch: Tử Hà - Biên tập: Bình Minh
Các vị pháp sư, các vị đồng học, mời xem tiếp Đại thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, bắt đầu từ câu thứ 2, dòng thứ 3, trang 35.
“Hựu Phật cáo phụ vương, nhất thiết chúng sinh tại sinh tử trung, niệm Phật chi tâm diệc phục như thị, đản năng hệ niệm bất chỉ, định sinh Phật tiền, nhất đắc vãng sinh, tức năng cải biến hết thảy chư ác thành đại từ bi” (Lại nữa, Phật bảo phụ vương: Hết thảy chúng sinh ở trong sinh tử, cái tâm niệm Phật cũng giống như vậy. Nhưng có thể buộc niệm không ngừng, nhất định sinh trước (gặp) Phật, một khi được vãng sinh, liền có thể biến đổi các ác thành đại từ bi).
Đoạn này ở trong kinh Quán Phật Tam Muội có đề cập đến. Đức Phật đã nói với phụ vương, hết thảy chúng sinh ở trong sinh tử là chỉ cho luân hồi lục đạo. Cũng vậy, cái tâm luân hồi tạo thành nghiệp luân hồi. Nòng cốt của tâm luân hồi chính là Ngã chấp. Kinh điển của Pháp Tướng Tông đã giảng rất rõ, Mạt Na thức là một bộ phận chấp trước kiên cố của A Lại Da. A Lại Da, vọng tâm này rất lớn, chấp trước một phần, một phần tướng phần cho là tự thân, sinh ra Thân kiến. Sau khi tâm niệm này sinh khởi, kiên cố chấp trước, không chịu buông bỏ.
Trong Phật pháp nói, ngày nào buông bỏ được, thì thật sự đã quay đầu, có thể hồi quy tự tính, viên thành Phật đạo. Câu này nói rất dễ, nhưng làm khó lắm. Vì sao? Không hiểu rõ ràng chân tướng sự thật, nên không quay đầu lại được. Chỉ có hiểu rõ ràng minh bạch sự thật chân tướng, thật sự buông bỏ. Buông bỏ được, thì ngay đó khế nhập tự tính. Tiểu thừa chứng quả Tu Đà Hoàn, Đại thừa trong 51 cấp bậc của Bồ tát, người này chứng được Sơ Tín vị.
Sơ Tín vị tuy rất thấp, nhưng chắc chắn thứ lớp tiến lên, không hề thoái chuyển. Vì sao? Vì Sơ Tín vị là chứng được Vị bất thoái. Nói cách khác, người này chỉ tiến lên, mức độ tiến lên nhanh chậm khác nhau. Điều này liên quan đến sự chuyên cần. Nếu như dũng mãnh tinh tấn, thì sẽ tiến bộ nhanh, còn như giải đãi, thì sẽ tiến bộ chậm hơn một chút, nhưng chắc chắn không hề thoái chuyển. Chúng sinh ở trong sinh tử luân hồi là như thế.
Ngã chấp kiên cố, tham, sân, si cùng Ngã chấp đồng thời khởi lên. Chấp trước kiên cố gọi là Ngã kiến. Ngã ái sẽ theo Ngã kiến mà khởi lên. Ngã ái này chính là tham. Ngã mạn chính là sân hận, một phần sân hận. Cuối cùng là Ngã si. Tam độc phiền não tham, sân, si cùng với Ngã kiến đồng thời khởi lên, cho nên Mạt Na thức thường đi theo 4 đại phiền não. Chỉ cần chưa chuyển thức thành trí, thì 4 đại phiền não vẫn còn, cho đến Phật trong mười pháp giới vẫn còn. Vấn đề này rất nghiêm trọng, làm thế nào cũng không chuyển được.
Như Lai có phương tiện, đoạn này là nói đến phương tiện lực dụng của chúng ta. Pháp phương tiện là gì vậy? Chính là một câu lục tự hồng danh Nam mô A Di Đà Phật. Công phu thật sự đắc lực, trong 24 giờ, danh hiệu không gián đoạn, thì người này có thể đem ngã kiến, ngã ái, ngã mạn, ngã si, dùng một câu danh hiệu để thay thế.
Ở trong Mật Tông, dùng một câu Lục Tự Đại Minh chú để thay thế. Sự tu tập của Chương Gia Đại sư, chính là câu Lục Tự Đại Minh chú, trong 24 giờ không hề gián đoạn. Chúng tôi học Phật pháp với Ngài. Khi tiếp khách cũng như khi Ngài tiếp tôi, thường thường là 2 tiếng đồng hồ. Ngài Kim Cương trì, chúng ta thấy miệng Ngài mấp máy nhưng không có âm thanh. Ngài trì chú. Ngài trì chú gì? Án Ma Ni Bát Di Hồng. Miệng đọc chú, tay kiết ấn, tâm quán tưởng. Ngài cũng đem câu thần chú này truyền lại cho tôi, kêu tôi thường xuyên đọc.
Tôi thỉnh giáo với Ngài, ý nghĩa của câu thần chú này là gì? Ngài đã dạy tôi. Án là thân thể. Ma Ni là hoa sen. Chúng ta có thấy trong kinh cũng có dịch, Ma Ni là hoa sen. Ma Ni là bảo trì, đây là bảo trì của tiếng Tây Tạng. Hồng, từ Hồng ở cuối cùng là ý. Chúng ta liên kết lại mà nói: thân-liên hoa- bảo trì–ý. Đây là ngữ pháp của văn Ấn Độ. Theo ngữ pháp của Trung Quốc mà nói: Bảo trì thân tâm, ý giống như hoa sen. Hoa sen ra khỏi bùn mà không nhiễm ô. Bùn dự cho lục đạo, nhiễm là nhiễm ô. Hoa sen nở trên mặt nước. Cọng sen, thì ở trong nước. Nước tượng trưng cho Tứ thánh pháp giới. Tịnh độ chính là Phương Tiện Hữu Dư Độ. Hoa sen nở ở trên cùng, nhiễm tịnh đều lìa bỏ, đó là Thật Báo Trang Nghiêm Độ. Quý vị xem bùn, rễ sen mọc ở trong bùn. Bùn tượng trưng cho lục đạo - nhiễm. Cọng sen mọc trong nước, nó không ở trong bùn, mà ở trong nước. Nước tượng trưng cho thanh tịnh. Hoa nở trên mặt nước, có nghĩa là Nhất chân pháp giới.
Từ đó, tôi mới hiểu được câu thần chú này ý nghĩa hay quá! Tâm không rời miệng, miệng không rời tâm. Niệm niệm nghĩ rằng thân tâm của mình giống như hoa sen, chẳng những không nhiễm lục đạo, mà pháp giới Tứ thánh cũng không nhiễm. Quý vị nghĩ xem ý nghĩa này hay quá, tâm quán tưởng. Tịnh Tông của chúng ta dùng Nam mô A Di Đà Phật, một câu danh hiệu này cũng là 6 từ. 6 từ này có nghĩa gì? Nam mô có nghĩa là quy y, quy mạng. A dịch là Vô. Di Đà dịch là Lượng. Phật dịch là Giác. Vô Lượng Giác là Chân như tự tính của chính mình. A Di Đà Phật là Chân như tự tính của chính mình.
Quy y Vô Lượng Giác, quy mạng Vô Lượng Giác, cho nên quý vị phải hiểu ý nghĩa này. Vô Lượng Giác là cái vốn sẵn có của mình, chứ không phải từ cầu bên ngoài. Trong Khởi Tín Luận, Mã Minh Bồ tát giảng rất hay: “Bản giác bản hữu, bất giác bản vô” (Bản giác vốn có, Bất giác vốn không). Bất giác là gì? A Lại Da thức là bất giác. A Lại Da là ông chủ tạo nên mười pháp giới, từ nó mà sinh ra, từ nó mà biến hiện. Năng biến là hy vọng, thì Sở biến đâu thật có, cho nên “phàm gì cótướng, đều là hư vọng”. Căn là hư vọng. Chân thật là tự tính, Vô Lượng Giác là chân, vĩnh hằng bất biến. Chúng ta nên quay đầu, nên quay đầu y vào Vô Lượng Giác. Quay đầu bản lai chính là Vô Lượng Giác, cho nên câu này có nghĩa là dạy chúng ta bỏ đi tâm luân hồi, mà sinh khởi tâm niệm Phật. Dùng tâm niệm Phật, thay thế tâm sinh tử luân hồi lục đạo. Như vậy là đúng.
Chúng ta học Phật bao nhiêu năm trời rồi, đạo lý cơ bản này đã hiểu được. “Hết thảy pháp theo tâm tưởng sinh”, chỉ cần tâm đó chuyển lại là được, cho nên hết thảy pháp quyết định ở tâm thái. Chúng ta không nên tin tưởng người khác, nhưng chúng ta phải nhất định tin tưởng vào chính mình.
Đạo Phật nói về Tín, hoàn toàn không giống như những tôn giáo khác. Tôn giáo khác, thứ nhất phải tin Chân thần, phải tin Chân chủ. Đây là điểm vô điều kiện thứ nhất. Trong đạo Phật, điểm vô điều kiện thứ nhất là tin vào chính mình. Ngẫu Ích Đại sư giảng trong Yếu Giải rất hay, thứ nhất là tin chính mình, thứ hai là tin Người, là Người gì? Người ở đây chỉ cho Phật. Chúng ta tu Tịnh Độ, tin Phật A Di Đà, tin Phật Thích Ca Mâu Ni.
Đầu tiên tin chính mình, không tin chính mình, tin Phật cũng vô dụng, đức Phật không giúp gì được.Trong Đại thừa giáo, đức Phật dạy chúng ta rất nhiều, cho nên nhất định chúng ta phải tin tưởng rằng, chúng ta vốn là Phật. Chư Tổ cũng dạy chúng ta như vậy, nhất định phải tin tưởng chính mình. Bản tính vốn thiện, hết thảy những điều bất thiện là tập tính. Bất thiện là tâm luân hồi, vốn thiện là tâm Phật.
Quý vị vốn là Phật, ngày nay ra nông nổi này, chính là bị mê lầm Tự tính, không phải thật sự mất mà chỉ là mê thôi. Không biết rằng mình có vốn thiện, không biết rằng mình vốn là Phật. Những lời này đều là những điều đức Phật dạy chúng ta trong kinh điển Đại thừa, nên chúng ta phải thật sự hiểu rõ ràng minh bạch.
“Đản năng êm bất chỉ, định sinh Phật tiền”. Đây là nói những người học pháp môn Tịnh độ. Hệ là gì? Là buộc ghi vào lòng, chúng ta gọi là nhớ. Trong tâm đừng nhớ đến điều gì khác, nhớ đến những việc khác, đều là luân hồi lục đạo, quý vị đã sai. Quý vị nên nhớ đến A Di Đà Phật, là quý vị làm đúng. Tâm hệ niệm này không được gián đoạn, suốt 24 giờ trong tâm thật sự có Phật, thật sự có Phật A Di Đà. Công phu hàng ngày, thân lễ Phật A Di Đà, mỗi ngày ít nhất lạy 300 lạy, đây cũng là một môn thể dục rất tốt.
Miệng niệm A Di Đà Phật, có định khoá, có tán khoá. Định khoá là công phu sáng tối. Công phu sáng tối, ít nhất niệm 3.000 danh hiệu Phật. Nếu như quý vị có thời gian, công việc không nhiều, không bận rộn, hay nhất là quý vị có thể niệm được 10.000 danh hiệu Phật. Trước khi niệm danh hiệu Phật, tốt nhất nên đọc kinh Vô Lượng Thọ một biến, hoặc là đọc quyển kinh A Di Đà đều được cả. Nếu như có nhiều thời gian thì đọc kinh Vô Lượng Thọ, hoặc có thể rút ngắn lại, đọc kinh Di Đà.
Tính tâm kiến cố, chẳng hề có chú hoài nghi, nguyện lực khẩn thiết cầu sinh Tịnh độ. Nếu như chúng ta đối với thế giới Tây Phương Cực Lạc nhận thức chưa rõ ràng, chưa hiểu biết nhiều, vẫn chưa có thể trừ tận gốc mê hoặc, thì nên đọc kinh Vô Lượng Thọ. Kinh này, đức Phật nói rất rõ ràng, từ từ đọc, lâu ngày sẽ hiểu được. Cái lý ở chỗ này.
Thật sự không còn một chút hoài nghi nào, thì đọc kinh Di Đà, không cần đọc kinh Vô Lượng Thọ nữa. Vì sao? Chấp trì danh hiệu là pháp tu chủ yếu, phải nên hiểu điều này.
Ngoài 2 thời kỳ công phu sáng, tối ra, những thời gian khác gọi là tán khoá. Nghĩ đến là niệm, đến một ngày nào đó trong suốt 24 giờ đồng hồ, danh hiệu Phật tự nhiên không gián đoạn, chúc mừng quý vị, công phu của quý vị đã thành phiến. Kiến Tư phiền não của quý vị không còn nữa. Công phu đến đây, chắc chắn quý vị khống chế được Kiến Tư phiền não, tuy chưa đoạn, nhưng nó không khởi tác dụng, sẽ được tự tại vãng sinh.
Khi nào quý vị muốn ra đi, thì Phật A Di Đà sẽ đến rước quý vị. Quý vị sẽ cảm thấy chúng sinh trong thế giới này rất đáng thương, có quá nhiều tai nạn, muốn ở lại thế giới này giúp cho họ. Được! Không gì đáng ngại. Tai nạn của thế giới này có nhiều. Tai nạn có ở ngay trước mặt quý vị, thì quý vị cũng bình an vô sự. Vì sao vậy? Vì cộng nghiệp bất đồng.
Người ta có cộng nghiệp gặp nạn, quý vị thì không có cộng nghiệp này, cho nên Phật, Bồ tát sẽ gia hộ cho quý vị, thần Hộ pháp sẽ bảo hộ quý vị, vì quý vị đến giúp cho mọi người mà. Nhân duyên giúp đỡ chúng sinh đã hết, công việc của quý vị đã làm xong, thì quý vị sẽ về bên thế giới Cực Lạc.
“Nhất định sinh ở trước Phật”, khẳng định biết bao! Khẳng định để cho quý vị không còn một chút nghi ngờ nào nữa.
Một khi được vãng sinh, tuy là hạ hạ phẩm vãng sinh về Phàm Thánh Đồng Cư Độ, vẫn có thể “thay đổi hết thảy điều ác thành đại từ bi”. Rốt ráo đoạn ác tu thiện, rốt ráo chuyển mê khai ngộ. Khi nào vậy? Khi sinh về thế giới Tây Phương Cực Lạc. Tuy là hạ hạ phẩm vãng sinh về Phàm Thánh Đồng Cư Độ cũng như vậy. Đúng là không thể nghĩ bàn! Thành đại từ bi, cho thấy thế giới Tây Phương Cực Lạc là Đại thừa. Tu Đà Hoàn, A La Hán, sinh về thế giới Cực Lạc cũng thành đại từ bi. Tâm lượng của họ lập tức mở ra. Vô duyên đại từ, Đồng thể đại bi trong tự tính tự nhiên lưu xuất. Đó là bản nguyện oai thần của Phật A Di Đà gia trì cho. Trên đây, Hoàng lão dạy chúng ta rằng, “đức Thế Tôn đại từ chí hiếu khuyên phụ vương, chỉ khuyên niệm Phật”. Ý này rất thâm sâu. Đoạn này chúng ta cần nên lãnh hội một cách sâu sắc. Quý vị xem đức Phật Thích Ca Mâu Ni độ cho cha mình, không nói những pháp môn khác, chỉ khuyên niệm Phật, cho thấy vô lượng pháp môn chẳng pháp nào là không thù thắng. Nhưng chúng sinh phàm phu chẳng thể tu được, dẫu pháp môn Đại thừa thật sự thù thắng không gì bằng. Vì sao đức Thế Tôn không cho phụ thân tu những pháp môn khác, không khuyên cha tu thiền, không khuyên cha trì chú, không khuyên cha nghiên cứu giáo lý, mà chỉ khuyên cha niệm Phật? Chúng ta nên suy nghĩ xem.
Chỉ có pháp môn chuyên tâm niệm Phật, là thích hợp nhất, và nương vào pháp môn Niệm Phật, quyết có thể được vãng sinh. Vãng sinh về thế giới Cực Lạc, chính là thành Phật. Tuy ở trong Đồng Cư Độ chưa thành Phật, ở trong Phương Tiện Độ cũng chưa thành Phật, chắc chắn một đời thành Phật, được vô lượng thọ, thọ mạng dài, chắc chắn thành tựu. Hơn nữa, thiện căn, phúc đức, nhân duyên thâm hậu, đến thế giới Tây Phương Cực Lạc cũng không đổi pháp môn nào khác, cũng không muốn tu pháp môn khác, chỉ một câu danh hiệu niệm đến cùng, chóng thành Phật! Nguyên nhân gì vậy? Người này được niệm Phật Tam Muội.
Đức Phật giảng dạy trong giáo lý Đại thừa rất nhiều: “Niệm Phật Tam Muội, Tam Muội trung vương” (Niệm Phật Tam Muội là vua trong các Tam Muội). Các vị còn nhớ câu này hay không? Tam Muội là thiền định. Niệm Phật Tam Muội, là vua trong các Tam Muội, không gì thù thắng bằng. Được định, định có thể sinh tuệ, chắc chắn là trí tuệ Bát nhã cứu cánh viên mãn. Có trí tuệ rồi, hết thảy chư Phật mười phương ba đời, đã nói vô lượng vô biên pháp môn, chẳng phải người này đã thông đạt được hết hay sao? Đạo lực thánh thông của chư Phật Như Lai, vạn đức vạn năng, chẳng phải đồng thời đầy đủ hay sao?
Đây thật sự là con đường tắt thành Phật. Pháp môn này tìm ở đâu ra chứ. Tuy ở Trung Quốc rất phổ biến, người niệm Phật lại rất đông, nhưng có được mấy người thật sự hiểu được lý này, thật sự phát tâm tu. Thật sự phát tâm, nghĩa là buông bỏ được hết vạn duyên, mới gọi là chân phát tâm. Tâm của quý vị thật sự được thanh tịnh, thật sự diệu dụng được, kế đến lợi người, giúp đỡ cho người khác. Quý vị chưa buông bỏ được. Đối với lý của chân tướng sự thật, quý vị vẫn chưa thấu triệt, cho nên chưa thể buông bỏ được.
Thật sự thấu triệt, thật sự hiểu rõ, biết rằng ngàn kinh vạn luận cũng không ra ngoài một câu danh hiệu Phật. Chỉ cần niệm một câu này đến thông đạt. Thông đạt đến đâu? Thông đạt đến tự tính. Hết thảy kinh điển, pháp thế gian và xuất thế gian, không một pháp nào quý vị chẳng thông đạt.
“Khi được vãng sinh bèn có thể chuyển ác thành thiện”, có thể biến đổi hết thảy điều ác thành đại từ bi. “Phương tiện diệu dụng của niệm Phật, hiển thị không sót”. Ấn Quang Đại sư dạy người ta đem chữ “Tử” dán ở trên trán, thời thời khắc khắc nghĩ đến mình sẽ chết.
Tôi thường dạy mọi người, hãy xem ngày hôm nay là ngày cuối cùng mình sống trên thế gian này, thì còn gì không buông bỏ được chứ? Nếu như mình còn có ngày mai, ngày mốt, còn có sang năm, còn có cả năm tới, thì những việc vướng bận của quý vị sẽ còn rất nhiều. Những chuyện vướng mắc này đối với quý vị không có chút lợi lạc nào. Vì sao vậy? Vì đó là sự vướng bận trong sinh tử.
Nếu như biết hôm nay là ngày cuối cùng của mình, thì chúng ta hãy nghĩ xem hôm nay chúng ta nên làm gì? Ngoài việc trì danh niệm Phật ra, tôi không làm gì hết. Quý vị nghĩ thử xem có phải như vậy không?
Toàn tâm toàn ý cầu sinh Tịnh độ. Tôi có tâm đồng tình, có tâm lân mẫn, thấy chúng sinh khổ não trên thế gian này, trong đó còn có thân bằng quyến thuộc của mình, tôi thật sự muốn giúp cho họ, bây giờ thì không được, lực bất tòng tâm. Sau khi tôi về thế giới Tây Phương Cực Lạc, thấy được Phật A Di Đà, được làm Bồ tát A Duy Việt Trí và được Phật A Di Đà gia hộ, có thể lập tức tái sinh chăng? Được! Lập tức có thể trở lại. Trở lại, thì quý vị sẽ được giống như Phật. Trí tuệ, thần thông, đạo lực, phương tiện thiện xảo, có thể đi giúp cho mọi người. Nếu quý vị không trở lại, thì quý vị không thể giúp được gì.
Hiểu rõ được sự thật chân tướng của lý này, thì miệng của quý vị không rời danh hiệu Phật. Trong tâm quý vị sẽ không còn vướng bận những thứ vớ vẩn nữa, mỗi tâm niệm đều là Phật A Di Đà. Thật sự không thể nghĩ bàn, như thế mới thật sự thâm nhập được phương tiện diệu dụng của niệm Phật.
Chúng ta xem tiếp đoạn dưới: “Cứ thượng kinh trung, Thế Tôn khuyến phụ vương niệm Phật, vị nhất thiết chúng sinh tại sinh tử trung, niệm Phật chi tâm hệ niệm bất chỉ. Phật ý sở chỉ chi niệm Phật, nãi tứ chủng niệm Phật trung chi trì danh niệm Phật” (Cứ theo trong kinh, Phật khuyên phụ vương niệm Phật, vì hết thảy chúng sinh trong sinh tử, tâm niệm Phật buộc niệm không dừng. Ý Phật chỉ niệm Phật đây là Trì danh niệm Phật trong 4 loại niệm Phật).
Đây là 4 cách niệm Phật trong kinh tạng Tịnh Độ Tông. 4 cách không giống nhau, cách nào tiện nhất, chắc chắn nhất, nhanh nhất? Chúng ta nên chọn cách nào? Kinh Di Đà Tiểu bản và kinh Vô Lượng Thọ, đều nói đến Trì danh niệm Phật. Niệm Phật có 4 cách: Một là Trì danh niệm Phật, hai là Quán tượng niệm Phật, ba là Quán tưởng niệm Phật, bốn là Thật tướng niệm Phật.
Thứ tự này, trong nhiều kinh điển đem Thật tướng niệm Phật để đầu, Trì danh niệm Phật để cuối. Ở đây, Hoàng lão cư sĩ để Trì danh niệm Phật ở đầu. Vì sao vậy? Vì là tông chỉ của kinh này. Trì danh niệm Phật, là tông chỉ của bộ kinh này, xưng niệm danh hiệu A Di Đà Phật. Tông ở đây nghĩa là tu tập, phương hướng, mục tiêu, tổng cương lĩnh chủ yếu. Tu tập chính của pháp môn này là gì? Tu tập chính của chúng ta, chính là Nhất tâm xưng niệm một câu lục tự hồng danh Nam mô A Di Đà Phật. Xưng là niệm ra tiếng, miệng niệm. Niệm là ý niệm, niệm ở trong tâm. Xưng là miệng đọc, niệm là tâm đọc. Tâm miệng nhất như, trong ngoài bất nhị. Người này gọi là Chân thật niệm Phật.
Như Thiện Đạo Đại sư dạy, duy có con đường tu tập xưng niệm A Di Đà Phật. Con đường ở đây là đường gần, gần nhất, con đường phàm phu thành Phật gần nhất, thời gian ngắn nhất, đạt hiệu quả nhất, đó là đản (chỉ) niệm A Di Đà Phật. “Chỉ”có nghĩa là chuyên. Không có bất cứ một tạp niệm nào trong đây, gọi là chỉ niệm. Nếu trong đó còn có những tạp niệm khác là sai rồi.
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ tát viết trong cuốn Tây Phương Xác Chỉ, dạy chúng ta niệm Phật nên niệm thế nào? Không hoài nghi, không tạp niệm, không gián đoạn. Những điều vị Bồ tát này dạy và Bồ tát Đại Thế Chí nói ở pháp hội Lăng Nghiêm hoàn toàn giống nhau.
Đại Thế Chí là trợ giáo của Phật A Di Đà nơi cõi Tây Phương Cực Lạc. Quan Âm và Thế Chí là trợ giáo, là bậc thượng thủ của Bồ tát nơi cõi Tây Phương, giống như lớp trưởng của chúng ta ngày nay, dạy chúng ta phương pháp niệm Phật. “Đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương tục” (Đều nhiếp 6 căn, niệm tịnh nối nhau). Nói theo thời nay, “đô nhiếp lục căn” chính là buông bỏ vạn duyên. Hết thảy đều buông bỏ, mắt không thấy, tai không nghe, mũi không ngửi, lưỡi không nếm vị, cũng coi như 6 căn buông bỏ 6 trần. Không tiếp xúc, 6 căn quay vào trong, không hướng ra ngoài phan duyên nữa, sau đó quý vị mới có thể đạt được tịnh niệm tương tục.
Tịnh niệm là niệm thanh tịnh. Nếu quý vị có tâm hoài nghi, tạp niệm, tâm của quý vị sẽ không thanh tịnh. Ý nghĩa giống như Giác Minh Diệu Hạnh Bồ tát nói: Không hoài nghi, không tạp niệm, không gián đoạn. Chúng ta thật chẳng dễ làm đâu. Vì sao? Vì chúng ta không nhiếp phục được tâm mình.
Làm học giả, làm công phu, điều kiện tiên quyết là phải nhiếp phục được tâm mình, giống như Bồ tát Đại Thế Chí từng dạy. Mạnh Tử nói: “Học vấn chi đạo vô tha, cầu kỳ phóng tâm nhi dĩ hỷ”, nghĩa là làm học giả không có gì khác, chỉ cần thu phục tâm đừng để phóng ra bên ngoài nữa là đủ rồi.
Quý vị xem, mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, đều là duyên hướng ra ngoài. Bây giờ không hướng ra ngoài nữa, tai không nghe thấy âm thanh, mắt không nhìn thấy sắc. Thu nhiếp nó lại. Thu nhiếp lại, thì tâm quý vị được thanh tịnh. Đó gọi là thu nhiếp.
Phải nên hiểu nhiệm tâm là chẳng phải không thấy, chẳng phải không nghe. Quý vị có thể thấy, quý vị có thể nghe, nhưng tâm không bị vướng mắc, thật sự công phu. Cổ nhân có nói một ví dụ rất hay: “Thấy mà không thấy, nghe mà không nghe”, quý vị nghĩ xem nghĩa là sao? Tôi nhìn thấy, thấy một cách rõ ràng minh bạch, vì sao lại nói là không thấy? Vì thấy mà không dính mắc. Công phu này không còn chỗ chê. Công phu thượng thượng thừa. Quý vị thấy, quý vị nghe, nhưng quý vị hoàn toàn không phân biệt, không chấp trước, đó chính là quý vị đã nhiếp phục được tâm mình.
Thấy, nghe phân biệt, chấp trước, tâm của quý vị hoàn toàn hướng ra ngoài. Quý vị duyên vào 6 trần bên ngoài, đó là tâm sinh tử, tâm luân hồi. Không hướng ngoại phan duyên, hướng vào trong chiếu căn tính, đó chính là phương pháp của Bồ tát Quán Thế Âm.
Chính là “phản văn văn tự tính, tính thành Vô thượng đạo”. Bồ tát dùng nhĩ căn không hướng ngoại phan duyên, mà hướng nội. Nội là gì? Nội là tự tính. Tự tính là thanh tịnh. Dùng nhĩ căn hay hơn dùng nhãn căn. Vì sao vậy? Vì nhãn căn quý vị chỉ có thể nhìn được 3 hướng, không nhìn thấy phía sau, trên dưới cũng không nhìn thấy.
Nếu như nói 6 hướng thì nó chỉ có thể nhìn thấy 3 hướng. Nhĩ căn rất hay, nó có thể nghe được 6 hướng, trước, sau, phải, trái, trên, dưới, đều có thể nghe được, cho nên Quán Thế Âm Bồ tát đã dùng nhĩ căn. Đối với thanh trần, thì tu cái gì? Không phân biệt, không chấp trước, không khởi tâm, không động niệm. Đó gọi là chân tu. Điều này rất khó, không dễ dàng đâu. Tịnh Tông đã dạy chúng ta phương pháp, hết thảy quy về A Di Đà Phật.
Lục căn trong cảnh giới lục trần, đều đổi thành A Di Đà Phật. Cái này dễ dàng, quá dễ dàng, ngoài A Di Đà Phật ra không có bất cứ thứ gì khác. Đó là công phu đã thành phiến, sâu chút nữa là Nhất tâm bất loạn, cho nên Thiện Đạo Đại sư dạy rất hay. Thiện Đạo Đại sư là Phật A Di Đà tái lai, lời dạy của Ngài chính là lời dạy của Phật A Di Đà. Đúng là con đường gần, thật sự nhanh chóng, 84.000 pháp môn, không pháp môn nào sánh kịp. Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Thiền Tông, Mật Tông đều không bằng.
Trong cuốn Tịnh độ Thánh Hiền Lục, trong Vãng Sinh Truyện cũng thấy được, thật sự có rất nhiều người đã làm thực nghiệm với chúng ta, làm mô phạm cho chúng ta, 3 năm thành công. Niệm Phật đến năm thứ 3, biết được giờ đi, Phật đến tiếp đón, không bệnh, đứng vãng sinh, ngồi vãng sinh, ra đi tiêu dao tự tại như thế, con đường tắt tu tập. Phàm phu lục đạo, thật sự mê mờ sâu dày, mê mờ lâu đời. Nói 3 năm vãng sinh, 3 năm là chết rồi, pháp môn này không thể tu được, tu là sẽ chết sớm. Nghĩ vậy, nên người ta sợ lắm; sợ không dám tu nữa. Vì sao? Đối với giáo lý, đối với chân tướng sự thật hoàn toàn không biết. Ở thế gian này, quý vị có sống đến 100 tuổi, thì quý vị cũng phải chết. Quý vị không chết được chăng? Vãng sinh về thế giới Tây Phương Cực Lạc thật sự không chết. Các vị nên hiểu điều này.
Quý vị còn sống mà về thế giới Tây Phương Cực Lạc, chứ không phải chết rồi mới đi. Người chết rồi còn nói được sao? Làm gì có chuyện đó. Quý vị xem lúc sắp lâm chung, người này nói với quý vị, nói với những người thân rằng, đã nhìn thấy Phật A Di Đà đến đón, bây giờ sẽ đi theo Phật, rất rõ ràng minh bạch. Người này đã đi, không cần thân xác này nữa, cho nên vãng sinh về thế giới Tây Phương Cực Lạc, không chết, còn sống mà vãng sinh, làm gì có chuyện chết mà vãng sinh được. Trên thực tế chết cũng có thể được vãng sinh.
Pháp môn của Phật A Di Đà, chẳng những độ được người, mà còn độ được cả súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục, độ khắp chúng sinh. Nếu chỉ độ được người, còn súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục không độ được, thì không thể được gọi là phương tiện. 9 pháp giới chúng sinh, chỉ cần quý vị có duyên gặp được, thì sẽ được độ, dễ dàng như vậy thôi.
Dưới đây ví dụ nói: “Dư môn tu hành danh thụ xuất tam giới” (Tu hành những pháp môn khác gọi là ra Tam giới theo chiều dọc lên). “Dư môn” ở đây chỉ cho 84.000 pháp môn, chỉ cho vô lượng pháp môn, chính là ngoài Tịnh Độ Tông ra, hoặc ngoài trì danh niệm Phật ra, không còn cái khác.
Thế nào gọi là “thụ xuất tam giới”? “Như trùng sinh trúc trung, thụ xuất tắc nan” (Như con sâu trong ống tre, chui ra ngoài theo chiều dọc của ống tre thì khó). Cây tre có từng đốt từng đốt. Nếu con sâu muốn đi ra theo con đường thẳng, thì nó phải đục thủng từng đốt mới có thể chui ra; cứ thế bò đến trên đỉnh mà chui ra. “Nan”ở đây, gọi là “nan hành đạo”(đạo khó thực hành).
“Đản niệm Phật như trùng hoành xuất trúc trung, dị ư thấu thoát, thị hoành xuất tam giới, xưng dị hành đạo” (Nhưng pháp môn niệm Phật như con sâu chui ra ngang thân ống tre, dễ dàng thoát ra, đó gọi là ra tam giới theo chiều ngang, gọi là đạo dễ thực hành). Con sâu này không cần phải đục thủng từng đốt từng đốt của cây tre, nó từ bên cạnh, đục thủng cạnh cây tre là có thể chui ra được rồi. Nó không cần phải làm cách phiền phức trên.
Đây là từ ví dụ nói cách nào dễ, cách nào khó. Ví dụ này rất rõ ràng. Dù cho đường tắt, nhưng vì nó thẳng tới, thành công nhanh chóng. Đặc biệt, chỉ trì danh, đường tắt trong những con đường gần, nó dễ dàng, thẳng tới, không đi đường vòng, cho nên nó thành công tấn tốc.
Kinh Di Đà có dạy chúng ta rằng: hoặc 1 ngày, hoặc 2 ngày, cho đến 7 ngày, quý vị xem có nhanh không. Chúng ta thấy trong cuốn Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, đời Tống, Pháp sư Doanh Kha, từ khi Ngài tiếp xúc với Tịnh Độ, xem Vãng Sinh Truyện, Ngài rất cảm động. Ngài thật sự phát tâm niệm danh hiệu Phật đến cuối cùng. 3 ngày 3 đêm không ngủ nghỉ, ngay cả cơm nước cũng quên mất, Phật A Di Đà đã đến. Phật A Di Đà đã nói với Ngài, ông còn sống 10 năm nữa, khuyên Ngài chuyên cần niệm Phật. Khi Ngài mệnh chung, Phật A Di Đà đã đến tiếp dẫn Ngài.
Ngài thương lượng với Phật A Di Đà, Ngài nói, thọ mạng 10 năm nữa con không cần, con đi theo Ngài bây giờ thôi. Vì sao vậy? Vì căn tính yếu ớt của con quá nghiêm trọng, phiền não tập khí sâu dày, con sống thêm 10 năm nữa không biết sẽ tạo bao nhiêu ác nghiệp, sợ rằng không vãng sinh được, cho nên 10 năm thọ mạng con không cần nữa, mà con đi theo Ngài bây giờ. Phật A Di Đà đã hứa khả: “Được, 3 ngày sau ta sẽ đến đón ông”.
Đây là biểu diễn pháp. Vì sao Phật A Di Đà không dẫn Ngài đi ngay lúc đó, mà phải hoãn lại 3 ngày? Kêu Ngài nói với đại chúng trong chùa. Đây là một vị Tỷ khiêu phá giới, không giữ thanh quy. Ở trong ngôi chùa này ác danh lẫy lừng, chẳng ai là không biết Ngài tạo ác nghiệp. Ngài niệm Phật cầu vãng sinh là vì sợ tương lai đọa vào địa ngục. Vì những việc làm của Ngài, vì xem trong cuốn giới luật, thì hoàn toàn phải đọa vào địa ngục A tỳ. Ngài quá sợ hãi.
Ngài hỏi các bạn, có cách nào để không bị đọa vào địa ngục chăng? Có người tặng cho Ngài cuốn Vãng Sinh Truyện. Quý vị xem những người này niệm Phật vãng sinh không đọa vào địa ngục, Ngài phát tâm như vậy. Vì thế, nói Ngài sợ khổ địa ngục, phát Bồ đề tâm, cầu sinh Tịnh độ.
Cái tâm phát tâm cầu sinh Tịnh độ này, trong cuốn Yếu Giải, Ngẫu Ích Đại sư dạy rằng, đó chính là tâm đại Bồ đề. Ngài không hiểu gì hết; cái gì gọi là Bồ đề tâm, Ngài cũng không biết, nhưng chỉ một lòng cầu sinh Tịnh Độ. Các vị nghĩ thử xem, tâm cầu sinh Tịnh Độ, nếu không chân thành, không thanh tịnh, không bình đẳng, vãng sinh được chẳng? Không được! Tâm đó nhất định phải là chân tâm, chứ không phải là vọng tâm. Chân tâm chính là tâm Bồ đề, tâm chân thành.
Trong cuốn Yếu Giải, Ngẫu Ích Đại sư nói rất hay, dạng ví dụ này trong cuốn Vãng Sinh Truyện, chúng ta thấy rất nhiều. Trong những bạn đồng tu hiện tại đây cũng có, chỉ cần chúng ta chú ý một chút là có thể nhận ra, là sự thật, chẳng phải là giả.
Mấy năm nay, thời gian tôi sống ở HongKong nhiều hơn. HongKong cách Thâm Quyến rất gần. Ở Thâm Quyến có vị cư sĩ tên là Hoàng Trung Xướng, ngoài 30 tuổi, nghe được pháp môn này, anh ta phát tâm làm thí nghiệm cho mọi người, tự mình thử xem.
Nhập thất 3 năm, ở trong thất, mỗi ngày đọc một bộ kinh Vô Lượng Thọ, ngoài ra đều niệm Phật. Ngày đêm không gián đoạn, mệt thì nghỉ, nghỉ khỏe rồi lại tiếp tục niệm. 2 năm 10 tháng, biết được giờ đi. Phật A Di Đà đến tiếp dẫn anh ta đi. Còn 2 tháng nữa là đủ 3 năm, thật sự ra đi, không bị bệnh, còn rất trẻ, tướng tốt hy hữu.
Sau khi hỏa táng lưu lại xác lợi, hiện nay còn an trí ở Thâm Quyến, trong một đạo tràng nhỏ. Người ta dựng cho anh này một cái tháp. Những chữ trên tháp là do tôi viết. Anh nghe tôi giảng kinh được mấy năm, phát tâm làm thí nghiệm, đã thành công. Nói cho quý vị biết, đó là sự thật không phải là dối gạt đâu. Vãng sinh không khó, vấn đề ở chỗ quý vị có chịu làm hay không; quý vị có chịu buông bỏ hay không? Mấu chốt thật sự ở chỗ này đấy. Có chịu buông bỏ không? Có buông bỏ được hay không? Buông bỏ là không lo bất cứ chuyện gì nữa, tốt cũng được, không tốt cũng được, hết thảy những chuyện trên thế gian này đều buông bỏ hết. Sống trên thế gian này, còn sống một ngày, thì thật sự niệm một ngày. Hàng ngày đều nghĩ rằng đây là ngày cuối cùng của mình.
“Quán tượng niệm Phật, dĩ trần cúng Thánh tượng, chú mục quán thị” (Quán tượng niệm Phật, sắp đặt tượng Phật mình thờ cúng, mắt chú tâm nhìn vào). Đây là Quán tượng niệm Phật trong Thập Lục Quán. Quý vị có thể chọn một tượng Phật mà quý vị yêu thích. Tượng Phật A Di Đà, quý vị cung phụng. Hàng ngày nhìn tượng Phật, khiến cho tượng Phật này in sâu vào trong đầu của quý vị. Phật giáo nói là trong A Lại Da thức, hàng ngày nhìn tượng Phật, thời thời khắc khắc nghĩ đến sẽ gặp Phật.
“Đản tượng tại khả tu, lý tượng tắc nan, tịnh nhân dị đoạn, tương tục thậm gian. Cố vân, tượng khứ hoàn vô, nhân thành gián đoạn” (Tuy nhiên, tượng còn trước mắt, có thể tu; rời tượng đi khó tu, nhân Tịnh dễ gián đoạn, nối tiếp nhau rất khó. Do vậy, nói: “Rời tượng trở lại không, nhân tu thành gián đoạn).
Ở đây không có phương tiện trì danh, bởi vì quý vị có tĩnh thất, Phật đường, trong đó có thể tu được. Ra khỏi Phật đường, thì tượng Phật không còn ở trước mắt quý vị nữa. Ngày nay, có máy chụp hình rất tiện lợi, quý vị chụp lại hình tượng Phật trong Phật đường, thời thời khắc khắc để ở bên mình, mang ra xem. Ngày xưa, không có thiết bị khoa học, quý vị ra khỏi Phật đường là công phu bị gián đoạn, cho nên khi gián đoạn khi tương tục.
“Cố kỳ phương tiện bật như trì danh niệm Phật chi tùy thời tùy địa khả dĩ tự đã” (Cho nên, phương tiện niệm Phật này không bằng Trì danh, mọi lúc, mọi nơi đều tu tập được).
“Quán tưởng niệm Phật. Tức Quán Kinh sở thuyết”, “dĩ ngã tâm mục, tưởng bỉ Như Lai. Đản phàm phu chi tâm tán loạn phù động, tiễn hữu tĩnh định chi thời, nan nhập vi diệu chi quán” (Quán tưởng niệm Phật, tức trong Quán Kinh nói: “Dùng tâm, mắt mình, tưởng Như Lai kia (Phật A Di Đà). Nhưng tâm phàm phu tán loạn, dao động, mặc dù trước có lúc tâm định tĩnh, mà khó đi vào quán vi diệu được).
Đây là nói sự thật, phàm phu tâm thật sự dao động không thể định được. Tuy có quán, nhưng những cảnh giới quán không thể xuất hiện.
“Cố vân, cảnh tế tâm thô, diệu quán nan thành” (Cho nên nói: Cảnh vi tế, tâm thô tháo, quán vi diệu khó thành).
Đây là sự thật, không phải giả đâu. Trong 16 quán, quán thứ 16 là Trì danh. Thông thường pháp tốt nhất hay đặt cuối cùng. Truyền thống văn hóa Ấn Độ và Trung Quốc có điểm này tương đồng. Như trong Kinh Lăng Nghiêm, Chương Niệm Phật Viên Thông–Bồ tát Đại Thế Chí, và pháp tu Nhĩ Căn Viên Thông–Bồ tát Quán Thế Âm được đặt ở chương 24, 25 cuối cùng.
Vì sao đặt Bồ tát Quán Âm ở sau cùng, mà không để Bồ tát Đại Thế Chí ở sau cùng? Pháp môn của Bồ tát Đại Thế Chí là ứng biến pháp với căn cơ của chúng sinh trong giới hư không giới, vô cùng rộng lớn, đương nhiên cũng bao gồm cả thế giới của chúng ta ở trong đó. Còn pháp môn Nhĩ Căn Viên Thông của Bồ tát Quán Thế Âm, chỉ thích hợp với căn cơ của chúng sinh trong thế giới này. Chúng sinh trong thế giới Sa bà nhĩ căn lành nhất, có đôi khi thấy không rõ ràng nhưng lại nghe rõ ràng, thích ứng nhất với căn cơ hiện nay đặt ở sau cùng. Cái này quan trọng lắm, không phải là 1 pháp môn đặc biệt mà là 2 pháp môn đặc biệt. 2 pháp môn đặc biệt đều ở Tịnh độ, cho nên tu quán tâm phải tỉ mỉ, phải thanh tịnh. Thật sự thanh tịnh, bình đẳng, thì tu quán mới có thể thành tựu. Không có tâm thanh tịnh, bình đẳng, thì tu quán rất khó khăn.
“Cố bất như trì danh chi phương tiện dị hành. Bất vấn thượng trí hạ ngu, vô luận khổ lạc mảng nhàn, nhân nhân năng niệm, cá cá khả hành” (Cho nên chẳng bằng phương tiện Trì danh dễ thực hành. Bất luận bậc trí, kẻ ngu, sướng, khổ, rảnh, bận, người người có thể niệm, ai ai cũng hành được).
Chính là pháp môn Trì danh. Quý vị nghĩ xem, pháp môn này thù thắng quá đấy, thật tiện lợi.
Thượng trí: Trước đây có giảng, là chư Phật, Bồ tát, chư vị tổ sư. Hạ ngu: là chỉ cho người già nơi nông thôn, không biết chữ, không nghe kinh, không hiểu gì hết. Người ta dạy họ niệm một câu A Di Đà Phật, vì có thiện căn, nên họ tin tưởng, họ thật sự niệm, rốt cuộc cũng được vãng sinh, là thành công rồi. Trong 4 loại niệm Phật, Trì danh là thù thắng.
Thật tướng niệm Phật. Viễn ly sinh diệt, hữu vô, năng sở, ngôn thuyết danh tự, tâm duyên đẳng tướng (Thật tướng niệm Phật: Xa lìa sinh diệt, có không, năng sở, ngôn thuyết danh tự. Tâm duyên tướng bình đẳng).
Viễn ly: Chúng ta thấy, sinh diệt là tương đối, có-không là tương đối, năng sở là tương đối, hết thảy đều là tương đối. Tương đối không còn, nghĩa là sao? Là nhập Bất nhị pháp môn. Đúng. Thật tướng niệm Phật, thật sự không nhập Bất nhị pháp môn, thì không thể tu được. Ai có thể tu Thật tướng niệm Phật? Công phu niệm Phật, đoạn hết Kiến Tư phiền não và Trần Sa phiền não, phá được một phần Vô Minh phiền não, siêu việt mười pháp giới, sinh về Thật Báo Trang Nghiêm Độ.
Người này còn niệm Phật không? Còn niệm. Khi đó gọi là Thật tướng niệm Phật Nhất tâm bất loạn. Gồm có Sự Nhất tâm và Lý Nhất tâm. Lý Nhất tâm bất loạn sinh về Thật Báo Trang Nghiêm Độ. Chúng ta biết rằng, pháp thân Đại sĩ ở Thật Báo Trang Nghiêm Độ, họ niệm Phật A Di Đà là Thật tướng niệm Phật. Bây giờ, chúng ta chưa làm được, về thế giới Tây Phương Cực Lạc sẽ làm được. Vì sao? Vì bản nguyện oai thần của Phật A Di Đà gia trì. Phàm Thánh Đồng Cư Độ hạ hạ phẩm vãng sinh, cũng được làm Bồ tát A Duy Việt Trí. A Duy Việt Trí Bồ tát niệm Phật là Thật tướng niệm Phật.
Thế nào gọi là Thật tướng? “Chuyên niệm tự tính bản cụ thiên chân chi Phật” (Chuyên niệm Phật của tự tính vốn có đầy đủ thiên chân). Phải cần không khởi tâm, không động niệm, cảnh giới tự tính hiện tiền. Khởi tâm động niệm, thì cảnh giới này không thể hiện tiền
Đản dĩ chúng sinh vị xuất luân hồi, sinh diệt chi tâm niệm niệm tương tục (Chỉ vì chúng sinh chưa ra khỏi luân hồi, tâm sinh diệt cứ niệm niệm nối tiếp nhau). Chúng sinh trong lục đạo không thể tu được.
Như Viên Giác kinh vân, vị xuất luân hồi nhi biện viên giác, bỉ viên giác tính tức đồng lưu chuyển, nhược xuất luân hồi vô hữu thị xứ. (Như kinh Viên Giác nói: Chưa ra khỏi luân hồi mà biện bác về Viên Giác, tính Viên giác sẽ cùng lưu chuyển luân hồi theo. Không có lý nào ra khỏi luân hồi được)
Chúng sinh trong lục đạo chưa ra khỏi luân hồi, mà muốn biện bác Viên giác. Viên giác là đại giác viên mãn, Như Lai cứu cánh quả đức. Ngày nay, chúng sinh trong lục đạo luân hồi, nghiên cứu Viên giác, phân biệt Viên giác, muốn lý giải Viên giác, có thể làm được không? Không thể. Vì sao vậy? Vì tính Viên giác và tâm luân hồi hỗn độn với nhau, lưu chuyển chính là luân hồi. Trên thực tế, tâm luân hồi và tính Viên giác là một chẳng phải hai. Mê là tâm luân hồi. Ngộ là tính Viên giác. Phải phá mê khai ngộ mới được, cửa mê chưa phá, thì làm sao nghiên cứu, phân biệt…. Vì sao? Vì tâm nghiên cứu là thức thứ 6, là phân biệt, công năng của thức này thật không thể nghĩ bàn.
Trong kinh điển Đại thừa, đức Phật dạy, đối với bên ngoài năng duyên hư không pháp giới, đối với bên trong năng duyên thức A Lại Da, nhưng không duyên được tự tính. Tính Viên giác là tự tính, thì nó duyên không được. Ý muốn nói, nếu không thật sự công phu, hàng ngày chúng ta nghiên cứu kinh điển, nghiên cứu mãi có thể ra khỏi luân hồi được chăng? Không có lý đó. Quý vị dùng tâm luân hồi nghiên cứu Phật giáo, thì Phật giáo cũng là luân hồi giáo.
Nên nhớ câu này: Hết thảy pháp từ tâm tưởng sinh. Tâm của chúng ta như thế nào, thì pháp sinh ra như thế ấy. Quý vị dùng tâm luân hồi xem Đại Tạng Kinh, Đại Tạng Kinh sẽ là luân hồi pháp. Là thiện pháp trong lục đạo luân hồi, tu tập giỏi đi nữa, tương lai cũng chỉ sinh về 28 tầng trời trong lục đạo, không khỏi luân hồi. Làm thế nào để ra khỏi luân hồi lục đạo? Buông bỏ phân biệt, chấp trước là siêu việt luân hồi, là siêu việt lục đạo. Còn dùng tâm phân biệt, chấp trước thì không ra khỏi được luân hồi. Điều này chẳng thể không biết. Những lời đức Phật dạy trong kinh đều là sự thật.
Hựu hà huống luân chuyển sinh tử cấu tâm tằng vị thanh tịnh, quán Phật viên giác nhi bất toàn phục (Huống chi, tâm cấu uế luân hồi sinh tử, chưa từng thanh tịnh, quán Phật Viên Giác, thì không hoàn toàn phục hồi được).
Mấy câu này là ở trong kinh Viên Giác. Luân hồi sinh tử cấu tâm, là nói tâm của phàm phu lục đạo không thanh tịnh. Vì sao vậy? Vì chưa phá ngã chấp, cùng với ngã chấp sinh khởi, chính là tự tư, tự lợi, danh văn, lợi dưỡng, tham, sân, si, mạn, ngũ dục, lục trần. Những thứ này không thể rời xa quý vị, mà quý vị cũng không muốn buông bỏ. Rốt cuộc thì sao? Rốt cuộc quý vị nhiều đời lưu chuyển. Bất cứ con đường nào trong luân hồi, quý vị cũng không thể ở đó luôn, chỉ ở đó tạm thời thôi. Theo nghiệp lực dẫn dắt mà quý vị luân chuyển trong lục đạo, đúng là khổ không tả hết.
Quý vị xem, vọng niệm trước diệt, vọng niệm sau sinh, từng niệm tiếp nối. Quý vị quán sát kỹ mà xem, có vọng niệm nào chẳng phải tự tư, tự lợi, có vọng niệm nào chẳng phải tham, sân, si, mạn. Đó là gì? Đó gọi là tạo nghiệp luân hồi. Thân không tạo nghiệp, miệng không tạo nghiệp, tâm niệm tạo, gọi là ý nghiệp. Mặc dù quý vị là người học Phật, quán Phật Viên Giác nhi bất toàn phục. Toàn phục có nghĩa là gì? Là khởi tâm động niệm. Quý vị học kinh điển Đại thừa, quý vị học Nhất thừa kinh giáo như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, quý vị vẫn còn khởi tâm động niệm.
Dưới đây, Hoàng lão cho một ví dụ. Ví dụ này ở trong kinh. Ví như loại trùng rất nhỏ (Thái mạt trùng) có thể đậu ở khắp nơi, nhưng không thể đậu trên ngọn lửa. Trong kinh Phật nói đến loại trùng rất nhỏ, là chỉ cho cái gì? Ngày nay, chúng ta gọi là virus. Đúng vậy, virus nơi nào cũng có, nhưng mà nó sợ lửa, cho nên sát trùng, dùng cách nào? Dùng nhiệt độ cao. Dưới nhiệt độ cao thì virus không thể tồn tại, nó sẽ bị tiêu diệt. Đây là ví dụ cho tâm chúng sinh, tâm luân hồi, chốn chốn năng duyên, chỉ không thể duyên ở Bát nhã. Ý nghĩa của câu này rất thâm sâu, chẳng thể không hiểu. Đây là nói đến tâm phan duyên của mình, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của quý vị, loại tâm này tài năng rất giỏi.
Ngày nay, khoa học, triết học, phát minh ra những dụng cụ khoa học tân tiến đều do tâm này, nhưng nó lại không duyên được Bát nhã. Bát nhã là gì? Là trí tuệ. Vì sao vậy? Trí tuệ từ thiền định mà có. Chỉ có tâm định, buông bỏ hết tâm phân biệt, chấp trước, thì Bát nhã mới có thể hiện tiền. Tâm phân biệt, chấp trước không buông bỏ, thì những thứ quý vị nghiên cứu được là gì? Đó là tri thức. Tri thức không giống với trí tuệ. Vì sao vậy? Vì trí tuệ trong tự tính vốn sẵn có. Nhất định phải tương ưng với tự tính, thì trí tuệ mới hiện tiền. Chúng ta biết rằng trí tuệ của chúng ta, tự tính vốn sẵn có trí tuệ vô lượng vô biên, ngày nay không hề nhận được một chút nào.
Nguyên nhân gì vậy? Đức Phật dạy chúng ta bị 3 loại che khuất: Vô Minh phiền não, Trần Sa phiền não, Kiến Tư phiền não. 3 loại này đã che khuất tự tính. Trong tự tính có đầy đủ đức tướng và trí tuệ Bát nhã hoàn toàn không hiển lộ được. Mục đích giáo hóa của chư Phật Như Lai không gì khác, ngoài việc đem chân tướng sự thật này giảng giải rõ ràng. Chúng sinh thật sự giác ngộ, buông bỏ 3 loại chướng ngại này, thì sẽ thành Phật. Trí tuệ, đức tướng, thần thông, đạo lực của chúng ta và Phật không hai không khác. Ngài có thể nói vô lượng vô biên 12 bộ kinh, quý vị cũng có thể nói được. Quý vị không kém đức Phật một điều gì.
Vấn đề ở chỗ đức Phật đã bỏ hết chướng ngại, nhưng chúng ta vẫn còn. Chỉ cần chính mình chịu buông bỏ. Buông bỏ là được. Phàm phu thành Phật, chẳng những trên lý luận nói là một niệm, mà chân tướng sự thật cũng là một niệm. Ngày xưa, đức Thế Tôn ở dưới cội Bồ đề đã thực nghiệm cho chúng ta thấy. Ngài nhập định, buông bỏ khởi tâm động niệm là thành Phật.
Ở Trung Quốc vào triều Đường, Lục Tổ Huệ Năng Đại sư, ở thất phương trượng của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, nghe Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn giảng kinh Kim Cương, giảng đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”, Ngài buông bỏ. Buông bỏ khởi tâm động niệm, hồi quy tự tính, kiến tính thành Phật. Lục Tổ Huệ Năng thị hiện cho chúng ta là 24 tuổi, đức Phật Thích Ca thị hiện cho chúng ta là 30 tuổi.
Điều này, cho chúng ta thấy buông bỏ là đúng! Vì sao quý vị không chịu buông bỏ? Vì sao quý vị vẫn còn so đo tính toán? Lý và Sự là một chẳng phải hai. Nhưng mà người ta nói rằng khó quá! Tôi cũng nói là rất khó. Khi tôi mới học Phật, Chương Gia Đại sư cũng nói là khó, không thể không thừa nhận là khó. Khó ở chỗ nào? Khó ở chỗ thời gian mê muội của chúng ta quá dài. Lâu đời lâu kiếp đến ngày nay, thời gian mê muội lâu quá, mê muội sâu dày, mê muội nghiêm trọng. Tuy ngày nay hiểu được, nhưng vẫn không thể quay đầu lại.
Vì thế, Như Lai có pháp môn phương tiện. Pháp môn phương tiện này, chính là muốn chúng ta chuyển tạp niệm thành A Di Đà Phật. Điều này rất dễ. Chuyển biến thành A Di Đà Phật, tuy chúng ta trong một đời này không thể khai ngộ, nhưng nếu niệm đến Lý Nhất tâm bất loạn thì sẽ khai ngộ, cảnh giới sẽ cùng với Phật Thích Ca Như Lai và cùng với Lục Tổ Đại sư. Đó là bậc thượng thượng căn. Chúng ta không phải là hàng thượng thượng căn, không làm được, nên phải chuyên (lão) thật niệm Phật. Chuyên thật niệm Phật, thì trong một đời chắc chắn thành công. Nếu thật sự hạ thủ công phu, thì chư vị tiền bối đã làm mô phạm cho chúng ta thấy, không quá 3 năm. Chúng ta tin tưởng rằng trong vòng 3 năm, chúng ta sẽ làm được.
Hoàng Trung Xướng làm được, vì sao chúng ta làm không được? Làm gì có lý đó! Cực nhanh. Nên biết rằng chúng ta sống trên thế gian này, muốn học đến học vị tiến sĩ phải học hai mươi mấy năm, còn phàm phu muốn thành Phật chỉ có 3 năm, không phải giả đâu. Thật sự đó! Trên người có một chút bệnh, nếu quý vị thật sự niệm Phật, thì chỉ một tuần thôi là bệnh hết liền. Vì sao vậy? Vì tâm thái chuyển tốt rồi. Tật bệnh do đâu? Tật bệnh do phiền não mà có. Ngũ độc tham, sân, si, mạn, nghi là bệnh căn. Oán hận não nộ phiền là bệnh duyên. Quý vị xem trong đây có bệnh nhân, thêm vào đó 5 loại duyên nữa, thì tế bào bình thường của quý vị sẽ biến thành tế bào bệnh tật. Quý vị sẽ bị bệnh, và quý vị sẽ thống khổ. Nếu tâm niệm đó chuyển được, thì oán hận não nộ phiền buông bỏ hết, có oan ức cỡ nào cũng không oán hận người, cũng chẳng nổi nóng. Bảo trì tâm bình khí hòa, tham, sân, si, mạn, buông bỏ, thì bệnh của quý vị không cần chữa mà khỏi.
Quý vị có đi khám bệnh, bác sĩ chữa cho quý vị, cũng rất mau khỏi. Vì thế, hết bệnh, trong đó 7 phần do tâm thái, còn 3 phần là do thuốc, không cần 3 phần thuốc. Nếu tâm thái vui vẻ, thì bệnh tật cũng hết. Đó là lý này, trong đây không có gì là thần bí cả. Đó là nói về sinh lý, nói về tâm lý cho quý vị. Tâm lý ảnh hưởng đến sinh lý. Tâm lý khỏe mạnh, thì sinh lý sẽ khỏe mạnh. Tâm lý không mạnh khỏe, mà muốn cho thân thể mạnh khỏe là rất khó. Thể dục thế nào cũng vô dụng thôi. Thể dục, tẩm bổ đều không có hiệu quả. Phật pháp dạy chúng ta đạo lý này.
Trí tuệ và tri thức là 2, nhất định chúng ta phải phân biệt rõ ràng. Chúng ta dùng thức thứ 6 để học. Những thứ học được, chính là tri thức. Chúng ta buông bỏ phân biệt, chấp trước, cũng có nghĩa là buông thức thứ 7, phân biệt là thức thứ 8. Chúng ta không dùng thức thứ 6, thức thứ 7, thì trí tuệ sẽ hiện tiền. Trí tuệ hiện tiền, thì có thể giải quyết được hết thảy mọi vấn đề, không bị di chứng.
Học Phật nghĩa là sao? Học Phật nghĩa là khai trí tuệ. Học khai trí tuệ, thì phải trì giới. Nhân giới sinh định, nhân định phát tuệ, cho nên vì sao chư Phật Như Lai và chư vị Tổ sư đều chú trọng đến việc trì giới. Bởi vì, nếu quý vị không có giới luật, thì quý vị tiêu đời rồi. Suốt đời sống trong Phật pháp, thì cũng chỉ học được một số tri thức mà thôi, quý vị không thể khai trí tuệ. Cái lý là ở chỗ này.
Thị dĩ thật tướng chi Phật, viên giác chi tính, tuy nhiên chúng sinh bản cụ, đản nhân vọng tâm niệm niệm sinh diệt, nhi bất năng quán (Vì thế, Phật Thực tướng, tính Viên giác, mặc dù chúng sinh vốn có đủ, nhưng vì vọng tâm niệm niệm sinh diệt, mà không thể quán được).
Đoạn này nói rất rõ ràng, quý vị sẽ không thể quán. Quán là ly tâm ý thức, đạo Phật nói là quán chiếu, “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không”, quý vị mới có thể hiểu được chân tướng của nhân sinh vũ trụ. Có vọng tâm, vọng tâm ở đây là chỉ cho vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, đều là niệm niệm sinh diệt. Vô thỉ vô minh phiền não, cũng là niệm niệm sinh diệt.
Cố Quán Phật Tam Muội kinh, Phật cáo phụ vương, chư Phật bản đức, chân như thật tướng đẳng, phi thị phàm phu sở hành cảnh giới, cố khuyên phụ vương niệm Phật dã (Cho nên, trong kinh Quán Phật Tam Muội, Phật bảo với phụ vương: Bản đức của chư Phật là Chân như, Thật tướng, không phải cảnh giới thực hành của phàm phu, nên khuyên phụ vương niệm Phật vậy).
Đoạn trước, chúng ta đọc qua rồi, bây giờ lại lặp lại. Đức Phật thuyết pháp không sợ lặp lại. Vì sao vậy? Vì thứ nhất, phàm phu chúng ta rất dễ quên. Trước kia có nghe, nhưng lại quên, cho nên Thế Tôn luôn luôn nhắc lại, hy vọng chúng ta không lãng quên nữa. Thứ hai là, đức Phật giảng kinh thuyết pháp, thính chúng không cố định. Người cũ, thì đoạn trước có nghe rồi, nhưng người mới đến hôm nay lại không được nghe. Đó là tâm từ bi bình đẳng, phương diện nào cũng lo chu đáo.
Do thượng khả kiến, niệm Phật pháp môn ư chư pháp trung xưng vi kính lộ. Nhi tứ chủng niệm Phật trung, trì danh niệm Phật cánh vi phương tiện cứu cánh. Cố xưng vi kính trung chi kính (Như trên đã nói, có thể thấy, trong các pháp, pháp môn niệm Phật được gọi là con đường thẳng. Mà trong 4 loại niệm Phật, Trì danh niệm Phật lại là phương tiện rốt ráo nhất. Vì thế, được gọi là con đường tắt nhất trong các con đường tắt).
Đây là con đường tắt, không gì gần bằng con đường này. Phật đã dạy cho chúng ta pháp môn này. Nói cách khác, đức Phật đem pháp môn phàm phu một đời thành Phật, truyền lại cho chúng ta. Chúng ta là phàm phu, một đời này có thể thành tựu được hay không? Điều này phải xem thiện căn, phước đức của quý vị, duyên đầy đủ. Thiện căn là gì? Lòng tin chân thật, thật sự hiểu rõ. Phước đức là gì? Là thật sự hạ thủ công phu, nghe xong rồi thật sự hạ thủ công phu, quý vị có phước, một đời này quý vị sẽ thành Phật. Phước báo của thế gian và xuất thế gian, còn lớn hơn sự thành Phật hay sao? Thành Phật đạt đến cứu cánh, đạt đến đỉnh điểm. Đời này, chúng ta được thân người, được gặp chính pháp, có thể không cảm ân sao? Dùng cái gì để báo ân? Chuyên cần tu tập, trong đời này quyết định vãng sinh, là báo ân Phật rồi. Nếu như đời này không được vãng sinh, thì chúng ta hóa thành một người vong ân bội nghĩa mất rồi.![]()



























































































































































Bình luận bài viết