Thông tin

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH GIẢI DIỄN NGHĨA - TẬP 34

 

 

Chủ giảng: LÃO PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG

*****

Trưởng ban biên dịch:

TK. Thích Đồng Bổn

 

QUYỂN 4

(Tập 31-40)

 

TẬP 34

 

Giảng ngày 09 tháng 5 năm 2010 Tại Tịnh Tông Học Viện Úc Châu

Biên dịch: Tử Hà - Biên tập: Bình Minh

 

Chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, xin xem tiếp Đại thừa Kinh Vô Lượng Thọ Giải, trang 36, dòng thứ 3, từ dưới lên.

“Hựu tứ chủng niệm Phật, nan dị hiển thù, thâm thiển tự dị, thật tắc sự lý bất nhị, thiển thâm tương tức, nhược thị viên nhân khán lai, xưng danh ám hợp đạo diệu sơ bộ tức thị đáo gia. Cố trì danh niệm Phật, hựu hà dị ư niệm Phật Thật tướng” (Lại, 4 loại niệm Phật, khó dễ, sâu cạn đều riêng khác, nhưng thật ra thì sự lý không hai, sâu cạn cũng là một (tương tức). Nếu cứ theo người Viên Giáo nhìn nhận, thì Xưng danh ngầm hợp diệu đạo, bước đầu liền được đến Nhà. Vì thế, Trì danh niệm Phật, lại có khác gì với Thật tướng niệm Phật?).

Đoạn này, Niệm lão nói rõ cho chúng ta về công phu tu tập. Tu là tu sửa. Hành là tư tưởng, hành vi. Hành gồm 3 loại: Khởi tâm động niệm là hành vi của ý; ngôn ngữ là hành vi của miệng; hết thảy động tác là hành vi của thân. Hành vi có nhiều chăng nữa, thì cũng không ra ngoài 3 loại: thân, khẩu, ý. Đạo Phật Đại thừa có nói đến tự tính, cũng chính là pháp tính. Hành vi tương ưng với tự tính, pháp tính, là đúng, chính xác. Trái ngược lại là hành vi sai lầm. Hành vi đúng, dẫn đến thân tâm mạnh khỏe.

Chúng ta thường nói gia đình hòa mục, sự nghiệp thuận lợi, xã hội an định, thế giới hòa bình. Nói hẹp, đó là điều tốt có được từ việc sửa đổi hành vi. Nói rộng, thì tâm hành của chúng ta sẽ ảnh hưởng đến hoàn cảnh xung quanh, từ nhân sự, vật chất, hoa cỏ, cây cối, cho đến sơn hà đại địa, cả vũ trụ này. Vì sao vậy? Trong kinh điển Phật giáo Đại thừa có 2 câu vô cùng quan trọng, đó là nguyên tắc tối cao, là sự thân chứng của chư Phật Như Lai. Ngày nay, chúng ta thường nói là Chân lý, chư Phật Như Lai thân chứng, đó chính là “Tướng do tâm sinh, cảnh tùy tâm chuyển. Hết thảy pháp tòng tâm tưởng sinh”. Chư Phật Như Lai vì hết thảy chúng sinh giảng kinh thuyết giáo, bất luận là ở thế giới này hay nơi phương khác, tuy không đồng thời gian, không gian thứ lớp giáo hóa, nhưng không thể xa rời 2 câu này.

Nếu chúng ta thấu triệt, thật sự hiểu rõ, thì vấn đề của chính chúng ta đã giải quyết xong, vấn đề giữa vũ trụ với vũ trụ cũng giải quyết xong, thật là không thể nghĩ bàn! Đức Phật dạy những gì đã chứng được, chẳng phải của riêng Ngài. Ngài dạy hết thảy chúng sinh đều sẵn có. Trong kinh nói chúng sinh tức vốn có, nghĩa là hiện tượng các duyên hòa hợp mà có, nên gọi là chúng sinh. Chúng ta nghĩ thử xem, bất luận là hiện tượng gì, có trường hợp nào chẳng phải là chúng duyên không hòa hợp mà thành không? Tìm không ra. Chúng ta là động vật. Con người là động vật. Đức Phật dạy cái gì hòa hợp thành con người? Là tứ đại và ngũ uẩn. Tứ đại là nói về vật chất. Ngũ uẩn là nói đến toàn bộ. Sắc trong ngũ uẩn chính là tứ đại. Thọ, Tưởng, Hành, Thức là tinh thần.

Cả vũ trụ này cũng không ngoài 2 thứ vật chất và tinh thần. Trong vật chất có tinh thần, trong tinh thần có vật chất. Đây là khoa học tối cao, triết học tối cao trong Phật pháp. Vũ trụ từ đâu mà có? Sinh mạng từ đâu mà có? Tôi từ đâu mà có? Trong kinh điển Đại thừa nói rất rõ ràng minh bạch, là từ tâm hiện thức biến. Tâm ở đây chính là tính. Tính là nói theo thể, cho nên tâm tính đôi khi ý nghĩa tương đồng, cũng có khi chia ra làm 2 ý, xem quý vị dùng nó vào chỗ nào. Cũng có thể lấy tâm tính liên kết lại mà nói, tâm tính là chân tính. Trong tâm tính không có vật chất cũng không có tinh thần, giống như bản thể trong triết học nói, bản thể của vũ trụ vạn hữu. Trong Đại thừa giáo gọi là tâm tính, nó không phải là tinh thần, cũng không phải là vật chất, nhưng nó có thể biến hiện ra vật chất, cũng có thể biến hiện ra tinh thần.

Nói cách khác, hiện tượng tinh thần và vật chất, 2 hiện tượng này đều từ tâm tính biến hiện ra, đều từ tâm tính mà có. Chỉ có tâm tính là vĩnh hằng, là bất sinh bất diệt. Nó không sinh, thì đương nhiên là không diệt. Nó không có gì hết, nhưng chẳng thể nói nó là Không. Nó có thể sinh vạn pháp, không thể nói vạn pháp là Có.

Chúng ta rất khâm phục các nhà khoa học ngày nay, họ nói giữa vũ trụ với vũ trụ chỉ có 3 thứ. Ngoài 3 thứ này ra, thì không có bất cứ một thứ gì. 3 thứ đó là gì? Là năng lượng, vật chất, tin tức. Đó là các nhà khoa học cận đại nói, tương đồng với các nhà Duy thức học nói tam tế tướng trong thức A Lại Da của Đại thừa Phật giáo. Nghiệp tướng của A Lại Da chính là năng lượng. Kiến tướng của A Lại Da là tin tức. Cảnh giới tướng của A Lại Da chính là vật chất.

Giữa vũ trụ duy thức chỉ có 3 thứ, ngoài 3 thứ này ra, thì không còn gì nữa. Hết thảy mọi cảnh giới đều do 3 thứ này biến hiện mà có. Rất khó được! Vậy thì 3 thứ này từ đâu mà có? Khoa học không nói được, nhưng Phật pháp nói được. 3 thứ này do tự tính biến hiện, là bản thể của tự tính. Làm thế nào mà biến ra được? Biến này là hiện tượng ba động (sóng). Điều này cũng được các nhà khoa học hiện nay khám phá ra. Hết thảy muôn sự muôn vật trong vũ trụ này, đều là hiện tượng ba động. Vì sao lại có nhiều như vậy? Là vì tần số ba động không đồng, cho nên vật chất nó biến hiện ra chẳng tương đồng.

3.000 năm về trước, đức Phật đã tuyên bố về chân tướng của vũ trụ. Vì sao Ngài biết được? Ngài hiểu rõ hơn các nhà khoa học nhiều, hiểu biết tỉ mỉ. Vì sao? Vì các nhà khoa học từ số học, số lý mà suy luận, sau đó dùng công cụ và phương pháp khoa học để chứng minh, khiến chúng ta biết được. Đức Phật không dùng số học, cũng không dùng công cụ khoa học, nhưng chư Phật, Bồ tát tận mắt nhìn thấy, điều này hay quá, tận mắt nhìn thấy. Vì sao chúng ta không nhìn thấy mà các Ngài lại nhìn thấy? Vì Ngài dùng tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm giác ngộ viên mãn nhìn thấy. Vì thế, đức Phật nói chúng ta cũng có khả năng này.

Nhưng hiện tại thì sao? Chúng ta khởi tâm động niệm phân biệt, chấp trước, gọi đó là phiền não, đã che khuất bản tâm của chúng ta. Nói đến sự tu tập của đạo Phật, là tu cái gì? Tu thiền định. 84.000 pháp môn đều tu thiền định. Nếu như rời thiền định, thì đó chẳng phải là Phật pháp. Pháp môn Niệm Phật của chúng ta, có phải là thiền định hay không? Phải! Hết thảy đều là tu thiền định, chỉ là phương pháp khác nhau thôi, sự định tâm sâu cạn khác nhau. Ví như lục đạo luân hồi, lục đạo luân hồi, không cần đại định là nhìn thấy rồi, nhất là Dục giới, 6 tầng trời Dục giới, bao gồm cả phía dưới là súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục, gọi là Dục giới. Dục giới chỉ cần một chút định là nhìn thấy rồi. Một chút định này, trong kinh Hoa Nghiêm nói, là Bồ tát Sơ Tín vị, giống như lớp sơ cấp trong Phật giáo vậy.

Quả vị Tu Đà Hoàn, là có khả năng nhìn thấy được, tuy thấy được, nhưng không ra khỏi được. Vì sao vậy? Vì công phu thiền định chưa đủ. Người này mới được một chút tâm thanh tịnh, mới phục hồi được 2 khả năng. Đức Phật dạy khả năng vốn có của chúng ta có 6 loại, gọi là Lục thông. Mọi người ai cũng có, chẳng có gì kỳ lạ hết, chỉ cần bỏ hết chướng ngại, thì khả năng đó sẽ phục hồi. Bỏ đi chướng ngại gì? Chướng ngại chẳng lớn lắm. Sơ quả Tu Đà Hoàn chứng được, tức là buông bỏ 5 Kiến hoặc.

Thứ nhất là buông bỏ Thân kiến, cái nhìn sai lầm về thân. Thân không phải là ta, điều này đối với người bình thường rất khó chấp nhận. Vậy thân là gì? Thân giống như quần áo mình có vậy, nó là một công cụ của ta, nó không phải là ta. Phải hiểu rõ chân tướng sự thật này, không nên chấp trước thân là ta nữa.

Thứ hai là buông bỏ Biên kiến. Biên kiến là gì? Chúng ta nói đối lập. Đây là nguồn gốc của hết thảy phiền não. Chúng ta không còn đối lập với người nữa, bất luận là người thân hay kẻ thù, hay oan gia trái chủ, đều không đối lập, mình người không khác.

Thứ ba là buông bỏ Thành kiến. Thành kiến là gì? Cho mình là hay, quan niệm này phải buông bỏ, bởi nó sai lầm.

Thứ tư là buông bỏ hết thảy những Tà kiến, quan niệm sai lầm. Nếu quý vị có thể sửa đổi được những bộ phận này, đó là tu tập, là sửa đổi, thì sẽ chứng được quả Tu Đà Hoàn. 6 khả năng của quý vị sẽ phục hồi được 2 loại, là thiên nhãn, thiên nhĩ, quý vị có thể nhìn thấy những thứ người khác không thấy. Vì sao vậy? Vì quý vị đã phá được một bộ phận không gian duy thứ.

Người bình thường chỉ có thể nhìn thấy không gian 3 chiều, nhưng quý vị có thể nhìn thấy 4 chiều, thấy 5 chiều, thấy 6 chiều, tự nhiên không giống người khác. Vì sao vậy? Không gian duy thứ từ đâu mà có? Từ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, biến hiện ra. Chỉ cần quý vị giảm bớt tâm phân biệt, chấp trước; buông bỏ được một phần, thì phá vỡ được một phần. Không gian duy thứ, các nhà khoa học cho chúng ta thấy, đứng về mặt lý luận mà nói, nó không có số lượng, nó là vô lượng vô biên, cho nên chỉ cần quý vị có thể phá vỡ. Các nhà khoa học không biết không gian duy thứ từ đâu mà có, nhưng đức Phật biết được, nó từ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước biến hiện ra.

Nếu như buông bỏ hết tâm vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, thì đã phá vỡ được toàn bộ không gian duy thứ. Sau khi phá được hết, thì khả năng của quý vị rất lớn. Mở mắt ra là quý vị có thể nhìn thấy được biến pháp giới hư không giới. Không cần dùng kính viễn vọng, không cần sử dụng đến những dụng cụ khoa học, quý vị có thể nhìn thấy những quả địa cầu khác, nhìn thấy tinh cầu rõ giống như thấy đồ vật ở trước mặt. Những tinh cầu khác cự ly cách chúng ta là vô hạn, nơi đó có những âm thanh gì, chúng ta ở đây nghe được rõ ràng. Người đó có khả năng này.

Năng lực trong Hoàn Nguyên Quán có đề cập đến, nó có 3 loại châu biến: Thứ nhất, khởi niệm lên châu biến pháp giới. Thứ hai, xuất sinh vô tận. Thứ ba, hàm dung Không- Có. Loại năng lực này có hay không? Thật sự không thể nghĩ bàn! Không cần sử dụng các công cụ, cho nên đức Phật không gì khác, là buông bỏ hết vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, hoặc nói là Ngài đã đoạn hết, nên năng lực của Ngài hoàn toàn phục hồi. Vì thế, những điều Ngài nói đều là cảnh giới hiện tượng. Tận mắt thấy được, tận tai nghe thấy, thì đương nhiên là sự thật rồi, chẳng phải là suy đoán, không phải là vọng tưởng. Hơn nữa, đức Phật nói cho chúng ta biết, chúng ta cũng có khả năng này. Chỉ cần chúng ta chịu buông bỏ, thì khả năng này sẽ phục hồi, cho nên đây là khoa học, khoa học thực nghiệm.

Quý vị thử xem, quý vị thử buông bỏ mà xem, quý vị chịu buông bỏ, thì khả năng này thật sự phục hồi. Điều này, chứng minh rằng đó là sự thật chẳng phải giả đâu. Cuộc sống hàng ngày của phàm phu, sống ở đâu? Sống ở chỗ bấp bênh không ổn định. Vì sao lại có cuộc sống không ổn định? Vì vọng tưởng, phân biệt, chấp trước gây nên. Chỉ cần có những thứ này, đức tướng, trí tuệ trong tự tính của quý vị hoàn toàn không thể hiện tiền. Những thứ hiện tiền là gì? Hiện tượng xiềng xích, phiền não, tai nạn, là như thế đó.

Đây là nguyên tắc hướng dẫn tu tập tối cao, cần nên biết. Sự tu tập của Tịnh Tông chính là 4 loại niệm Phật. 4 loại niệm Phật có khó có dễ, cho nên sự sai biệt giữa khó và dễ rất lớn. Sâu cạn hình như không giống nhau, nhưng thật ra Lý, Sự bất nhị, sâu cạn tương tức, trong cạn có sâu, trong sâu có cạn. Đây là chân tướng sự thật, và chân tướng sự thật này, ở đây tuy là nói công phu niệm Phật của chúng ta, nhưng kỳ thật 84.000 pháp môn, cho đến trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, đều có thể ứng dụng được, chính là cái lý này vậy.

Nhược thị viên nhân khán lai, xưng danh ám hợp đạo diệu (Nếu cứ theo người Viên Giáo nhìn nhận, thì xưng danh ngầm hợp diệu đạo).

Xưng danh, chính là niệm một câu Nam mô A Di Đà Phật. Đạo diệu là gì? Đạo diệu là Tính đức. Xưng danh rất cạn, mọi người ai cũng biết, đứa trẻ lên 3 cũng biết niệm Nam mô A Di Đà Phật. Đạo diệu là gì? Đạo diệu là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tính. Xưng danh, dốc lòng niệm danh hiệu Phật. Niệm đến không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước, thì quý vị sẽ thành Phật, quý vị đã đạt được thành tựu tối cao, tối viên mãn rồi.

Vì sao chúng ta niệm mấy chục năm, niệm suốt một đời, mà vẫn không lìa được phiền não? Vì sao vậy? Là vì quý vị không biết niệm. Quý vị không hiểu rõ đạo lý niệm Phật. Quý vị không nắm bắt được phương pháp niệm Phật, cho nên quý vị không thể hợp với đạo diệu. Nếu như quý vị biết niệm, quý vị hiểu đạo lý, hiểu lý luận, biết phương pháp, thì lợi ích của sự niệm Phật thật không thể nghĩ bàn.

Bộ kinh này đã dạy chúng ta những việc này. Chỉ cần quý vị hiểu được những việc này, thì quý vị sẽ hiểu được hết Phật pháp. Chẳng những thông hiểu Phật pháp, mà quý vị còn thông hiểu được hết thảy pháp thế gian và xuất thế gian. Vì sao vậy? Vì không rời tự tính. Chỉ cần minh tâm kiến tính, thì quý vị sẽ thông hết, sẽ hiểu rõ hết.

Năm đức Phật Thích Ca Mâu Ni 30 tuổi, Ngài đã học được 12 năm. Những tôn giáo, triết học của cổ Ấn Độ, Ngài đều học hết. Ngài cũng tu tập thành công Tứ thiền bát định. Cảm thấy không còn nơi nào để học nữa, cho nên Ngài đến bờ sông Hằng, tìm một gốc cây đại thọ để nhập định, buông bỏ hết sở học trong 12 năm, chính là buông bỏ Sở tri chướng. Những thứ Ngài học gọi là Sở tri chướng.

Buông bỏ được, nên Ngài đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tính. Người thế gian tôn xưng Ngài là Phật. Thành Phật nghĩa là thành tựu giác ngộ viên mãn. Bắt đầu từ ngày hôm đó, Ngài đi giáo hóa. Lục đạo, vũ trụ, vạn vật, sinh mạng từ đâu mà có, ta từ đâu tới, Ngài đều hiểu rõ ràng, không hề có một chút nghi hoặc. Ngài bắt đầu đi giáo hóa, 79 tuổi nhập Niết bàn. Suốt cuộc đời, Ngài giáo hóa giảng kinh hơn 300 hội, thuyết pháp 49 năm.

Các vị nên biết rằng, Phật giáo là giáo dục của đức Phật, chứ chẳng phải là tôn giáo. Ngài không kiến lập một chủ nhân tạo vật, không hề kiến lập một hình tướng, Khổng Tử của Trung Quốc giống như Ngài. Nếu theo đương thời phân định, thì Ngài thật sự là một nhà giáo dục trong xã hội đa nguyên văn hóa, xứng danh không hổ thẹn! Địa vị của Ngài là người làm nghĩa vụ giáo dục trong xã hội đa nguyên văn hóa. Ngài dạy học mà không nhận học phí, không phân biệt giống nòi, không phân biệt quốc gia, cũng không phân biệt tôn giáo tín ngưỡng. Quý vị chịu học với Ngài, thì Ngài sẽ hết lòng dạy quý vị. Điều này, chúng ta thấy rõ trong kinh điển. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni không bao giờ dạy người ta phải thay đổi tôn giáo tín ngưỡng. Quý vị tra trong Đại Tạng Kinh xem, không hề nói như vậy.

Ngài tôn trọng tôn giáo, cũng có nghĩa là Ngài tôn trọng xã hội, tôn trọng quốc gia, tuyệt đối không phá hoại. Ngài tuyệt đối không nói rằng: Tôn giáo ngươi tin không đúng. Ngươi nên tin ta mới đúng. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni không làm như vậy. Đó là giáo dục, cho nên bất cứ một tôn giáo nào cũng có thể tiếp nhận sự giáo dục của đức Phật. Nâng cao đức hạnh học vấn của quý vị, như thế là đúng. Bất luận tin tôn giáo nào, cũng không xung đột với giáo dục.

Quý vị xem, trong đại học hiện nay, tín ngưỡng tôn giáo bất đồng, nhưng vẫn cùng học ở trong một lớp học mà. Giáo dục của Phật giáo, dạy ta điều gì? Dạy ta về chân tướng của nhân sinh vũ trụ. Mệnh đề này hiện nay có ở trong môn học nào vậy? Có ở trong môn triết học, khoa học, đó không phải là Phật pháp thì là gì? Khi tôi mới học Phật, Phương Đông Mỹ tiên sinh giới thiệu với tôi, Phật pháp là triết học tối cao trên toàn thế giới. Thầy Phương đã thấy được.

Chúng tôi học gần 60 năm rồi. 26 tuổi, tôi bắt đầu học. Năm nay 59 năm, sang năm là tròn 60 năm rồi, tôi đã cảm nhận sâu sắc, khoa học tối cao nằm trong đây. Vậy đối với xã hội có lợi ích gì chăng? Có! Có lợi ích gì? Nó có giáo dục luân lý. Giáo dục luân lý nói gì? Nói về quan hệ; quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với động vật, giữa con người và thực vật, giữa con người với sơn hà đại địa, giữa con người với tự nhiên, giữa con người với bất đồng không gian duy thứ. Những luân lý này giảng rất đầy đủ.

Người Trung Quốc giảng luân lý chỉ nói đến con người, không nói đến quan hệ giữa chúng ta với động vật, với thực vật, nhưng đạo Phật nói đến. Nói quan hệ đến cuối cùng, kết luận của nó là gì? Là nhất thể. Biến pháp giới hư không giới, là một tự tính, là nhất thể. Triết học này nói rất đầy đủ. Vì thế, lời của thầy Phương không sai, không sai một chút nào, là nhất thể. Vì là nhất thể, cho nên chúng ta cần phải tôn trọng, chẳng những tôn trọng với người, mà còn với tất cả quanh ta.

Quý vị xem, trong Đệ Tử Quy nói, “phàm là người, đều nên thương”. Đây là lý luận của đạo Nho, chỉ nói đến người. Ngoài con người, đạo Phật còn dạy chúng ta đối với hoa cỏ, cây cối phải tôn trọng, phải thương yêu nó. Trong Phật giáo nói Thần Hoa, Thọ Thần, Thần Cây Cỏ, là ý này. Phải yêu thương sơn hà đại địa, nhỏ như một hạt vi trần cũng không thể xem thường. Đó là gì vậy? Tôn trọng tự tính, biểu hiện ở chỗ này, phải tôn trọng hiện tượng tự nhiên. Trời mát, trời mưa, sấm chớp, gió bão đều phải tôn trọng. Đó là gì? Đó là hiện tượng tự nhiên, chúng ta có tâm tôn trọng, tâm cung kính, tâm yêu mến, thật là mưa thuận gió hòa, không có những thiên tai xảy ra. Quý vị xem, Ngài dạy về luân lý, kế đến nói về đạo đức, về nhân quả. Con người nếu như học được 3 điều này, thì xã hội này an định, thiên hạ thái bình, gọi đó là trường trị cửu an.

Những điều này có thể cống hiến cho các vị Đế vương trị thế. Họ sẽ được lợi ích, dùng những thứ này trị quốc bình thiên hạ. Có một số ít người muốn nâng cao cảnh giới của mình, muốn mình thành tựu học vấn đức hạnh đầy đủ, thì hướng thượng vươn lên. Ở đây khẳng định đáp ứng đầy đủ nhu cầu của quý vị, chứng được quả báo cứu cánh.

Kỳ thật, chư vị tổ sư cũng rất giỏi. Tôi thấy đó cũng là hóa thân của Phật, Bồ tát, trong 32 ứng thân có nói, muốn có thân gì để được độ thì hiện ra thân đó. Cần lấy thân Thánh hiền để được độ, thì các Ngài đã hiện thân Thánh hiền, cho nên trong Đệ Tử Quy có 2 câu tương ưng với Đại thừa và Tiểu thừa. Câu: “Phàm là người, đều nên thương”, đây là tương ưng với bậc Tiểu thừa. Câu: “Phiếm ái chúng, nhi thân nhân” (Yêu thương chúng mà gần người có lòng nhân) là Đại thừa.

“Chúng” ở đây có nghĩa là gì? Chúng là chúng sinh, là hiện tượng chúng duyên hòa hợp mà sinh khởi, bao gồm hết cả vũ trụ. Ý nghĩa của từ “phiếm ái chúng” giống như pháp Đại thừa, chẳng những thương người, mà hoa cỏ cây cối, sơn hà đại địa, hiện tượng vũ trụ này đều thương yêu hết. Vì sao vậy? Vì nó đều là chúng duyên hòa hợp mà. Phạm vi chữ “chúng” rất rộng lớn. Con người chưa đủ, vì con người chỉ là một bộ phận trong mười pháp giới, còn “chúng” đây bao gồm tất cả mười pháp giới, nghĩa là Y chính trang nghiêm. Chúng trong chúng sinh là bao gồm hết. Quý vị nghĩ xem tâm lượng này có lớn không. Đúng là tâm bao thái hư, lượng châu sa giới, tình thương chân thật, thanh tịnh và bình đẳng. Từ nền tảng của tình thương này, nâng cao mở rộng lòng từ bi của chính mình. Cảnh giới càng cao, thì tâm từ bi của quý vị càng lớn, không có một thứ gì có thể chứa đựng được. Vì thế, Bồ tát Viên Giáo xem ra ngầm hợp đạo diệu, bước đầu là đã đến nhà rồi, đây là Đại thừa Viên Giáo.

“Cố trì danh niệm Phật, hựu hà dị ư niệm Phật thật tướng” (Vì thế, Trì danh niệm Phật lại đâu có khác gì với Thật tướng niệm Phật!).

Thật tướng chính là chân tướng của hết thảy pháp. Vì sao vậy? Vì câu Phật hiệu A Di Đà Phật này vốn là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch nghĩa: A nghĩa là Vô. Di Đà nghĩa là Lượng. Phật nghĩa là Giác; không phải không dịch được, nhưng vì sao không dịch? Là tôn trọng không dịch. Cả câu dịch ra là Vô Lượng Giác. Không có thứ gì là chẳng giác. Chúng ta ngày nay thì sao? Hết thảy là mê, không giác một thứ gì. Ngày ngày niệm câu này là để nhắc nhở chính mình. Thế nào là Giác? Buông bỏ chướng ngại là Giác. Không chấp trước, không còn thành kiến nữa, thì quý vị đã bắt đầu Giác ngộ đấy. Thật sự không chấp trước nữa, đối với hết thảy pháp của thế gian và xuất thế gian đều không chấp trước, thân này cũng không chấp trước. Chúc mừng quý vị, quý vị chứng được quả A La Hán rồi. Quý vị đã thành Chính Giác.

Thứ năm là buông bỏ phân biệt. Chẳng những không chấp trước, mà còn đều không phân biệt đối với hết thảy pháp của thế gian và xuất thế gian. Vì sao? Phàm là có tướng, đều là hư vọng. Hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bào ảnh. Ngày nay, các nhà khoa học cho chúng ta thấy, hết thảy hiện tượng đều là ba động (sóng), nó không hề thật sự tồn tại, không chút sở đắc. Các nhà khoa học phát hiện được chân tướng sự thật này, chỉ cần người đó chịu buông bỏ, thì người đó cũng thành Phật, cũng thành Bồ tát. Không nhất định là học Phật mới có thể thành Phật. Học khoa học cũng có thể thành Phật, học triết học cũng có thể thành Phật. Học những tôn giáo khác cũng có thể thành Phật.

Điều kiện thành Phật là buông bỏ. Bất luận học gì, chỉ cần quý vị có thể buông bỏ chấp trước, trong đạo Phật nói, quý vị thành Phật, thành A La Hán. Quý vị buông bỏ tâm phân biệt, quý vị thành Bồ tát, quý vị thành Chính Đẳng Chính Giác. Quý vị không khởi tâm, không động niệm, thì quý vị thành Phật, quý vị thành Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói cho chúng ta biết chân tướng sự thật này. Ngoài việc giáo hóa chúng sinh, giúp cho chúng ta giác ngộ, giúp cho chúng ta hồi quy tự tính, thì Ngài cần gì? Ngài không cần bất cứ một thứ gì. Ngài không cần danh, cũng không cần lợi, và cũng không cần người khác phải tôn trọng. Tâm địa thật sự không nhiễm một mảy vi trần. Ngài thị hiện cho chúng ta, những phương pháp mà Ngài hướng dẫn chúng ta, đều là những thứ mà chúng ta vốn sẵn có. Chúng ta vốn cùng Ngài không khác. Chúng ta học theo Ngài thì sẽ tìm lại được bản lai diện mục của chính mình. Vì thế, đại ý của đoạn này cho chúng ta thấy rằng, Trì danh tuy rất thấp, rất dễ, nhưng mà nếu thật sự công phu đắc lực, công phu đến cùng, thì sẽ biến thành thật tướng, khế nhập Thật tướng.

Dưới đây trích dẫn một đoạn trong Di Đà Sớ Sao. Đoạn này do Liên Trì Đại sư dạy: “Thật tướng vân giả” (Thế nào gọi là thật tướng?). “Phi tất diệt trừ chư tướng” (Không hẳn là diệt trừ các tướng). Câu này rất quan trọng, chẳng phải tận diệt hết thảy tướng, không phải ý này.

Cái tức tướng nhi vô tướng dã” (Vì chính là tướng mà vô tướng). Đây mới gọi là thật sự khế nhập Thật tướng. Vấn đề này không dễ hiểu đâu. Chúng ta đang trong quá trình học tập, thường dùng màn hình của TV để làm ví dụ. Vì sao lại lấy ví dụ này? Ngày nay, nhà nào cũng có TV. Trong cuộc sống, mỗi ngày chắn chắn có quý vị xem TV, hơn nữa thời gian xem TV rất nhiều. Do đó, TV đã biến thành một bộ phận quan trọng nhất trong cuộc sống của quý vị.

Quý vị phải biết xem. Biết xem, thì sẽ thành Phật. Chỉ sợ quý vị không biết xem. Chúng ta lấy màn hình của TV, dụ cho năng sinh năng hiện của tự tính. Vì sao vậy? Vì nó vĩnh hằng bất biến. Những thứ hiện ra trên màn hình, chính là năng sinh vạn pháp, có đúng không nào? Vạn pháp này thiên biến vạn hóa. Tần số chúng ta không mở ra mà đóng lại, tắt nguồn điện, đó chính là bản lai diện mục của nó. Thanh tịnh, không nhiễm mảy vi trần.

Kênh được mở ra, sắc tướng lập tức xuất hiện. Đó chính là Thập pháp giới Y chính trang nghiêm. Làm cách nào nó hiện tiền được? Nó nương vào màn hình mà hiện. Nếu không có màn hình, thì nó không thể xuất hiện được. Màn hình là thật, nó bất sinh bất diệt, nó không có gì hết, nhưng sắc tướng hiện ra thì cái gì cũng có. Sát na, sát na sinh diệt. Tuy những thứ hiện ra là có, nhưng nó sát na sinh diệt. Thường thức này mọi người đều hiểu, cho nên quý vị không thể nói nó thật Có. Màn hình không có gì hết, nhưng chẳng thể nói là nó thật Không. Vì nó có thể hiện, màn hình và sắc tướng trong tần số biến thành nhất thể. Nó có cách nào để phân khai chăng? Không thể phân khai. Kỳ thật, nó là hai. Hai cái bao dung trong nhất thể, không thể chia lìa.

Quý vị nên biết rằng, sắc tướng tức là màn hình, Có tức là Không. Cái Có đó là huyễn Có. Màn hình vĩnh hằng bất biến, thật sự không hề thay đổi màn hình một chút nào. Nó vẫn sạch sẽ như vậy. Nó vẫn không hề bị nhiễm ô. Đó gọi là “tức tướng mà vô tướng”. Xem tiết mục, đồng thời quý vị có thể thấy màn hình vĩnh hằng bất biến. Cái này gọi là “tức tướng mà vô tướng”. Ly tướng có nghĩa là như vậy, chứ chẳng phải là sau khi tắt nguồn điện, gọi đó là ly tướng. Không phải vậy đâu. Ý nghĩa ly tướng như thế rất cạn cợt, đứa trẻ lên ba cũng hiểu được, tắt mất rồi.

“Tức tướng ly tướng”. Cảnh giới này cao lắm. Người thật sự có trí tuệ mới hiểu được. Hiện tượng này có tồn tại hay không? Hiện tượng này không tồn tại. Sát na là diệt rồi, nhất là Bồ tát Di Lặc nói cho chúng ta biết, những sắc tướng hiện tiền trước chúng ta đây, tốc độ biến động của nó, một khảy móng tay có ba trăm hai mươi triệu niệm. Niệm niệm thành hình. Hình đều có thức. Thức tức là Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Ngài cho chúng ta biết, hết thảy hiện tượng vật chất, đều có Thọ, Tưởng, Hành, Thức.

Bữa trước, có một học trò mang đĩa đến cho tôi xem. Nội dung trong đĩa này do nhà khoa học người Mỹ phát hiện. Phát hiện ra điều gì? Nước có trí nhớ. Tiến sĩ Giang Bổn Thắng của Nhật Bản thực nghiệm, nước có thể nhìn, thấy, nghe, hiểu được ý của con người. Khi giác ngộ là kiến, văn, giác, tri. Khi mê thì kiến, văn, giác, tri sẽ bị biến chất. Biến thành cái gì? Biến thành Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Quý vị xem nước có Thọ, Tưởng, Hành, Thức hay không? Có! Quý vị thương nó thích, quý vị hận nó ghét, nó lập tức phản ứng, nó có Thọ, nó tiếp nhận mà. Ý niệm của chúng ta, nó hiểu được, cho nên nó biết nghĩ. Hành là gì? Hành là chấp trước. Ngày nay, phát hiện nó có ký ức. Ký ức chính là Thức. Quý vị xem Thọ, Tưởng, Hành, Thức đều có đầy đủ. Sự việc này phiền phức lắm đấy. Chúng ta dùng để giải thích sự tai nạn của địa cầu hiện nay. Con người sống trên quả địa cầu, khởi tâm động niệm, là có lỗi với địa cầu, quý vị phá hoại nó. Quý vị nên biết rằng, hết thảy những hiện tượng vật chất này, nó đều có ký ức, có phân biệt, có chấp trước.

Quý vị có lỗi với nó, thì nó cũng chẳng nể quý vị. Chỉ cần nó lắc nhẹ một chút, là quý vị không thể chịu nổi động đất. Nước biển lắc nhẹ một chút là sóng thần rồi. Vì thế, đức Phật dạy chúng ta đạo lý này, nhất định phải ghi nhớ, hết thảy pháp từ tâm tưởng sinh. Tâm địa của chúng ta lương thiện, tâm địa của chúng ta từ bi, sẽ chiêu cảm ra cây cối, hoa cỏ, sơn hà đại địa cái nào cũng đẹp. Đem so sánh thế giới Cực Lạc với thế giới của chúng ta, vì sao thế giới đó lại đẹp như vậy? Không gì khác, người dân ở thế giới đó, đều là các bậc thượng thiện nhân tụ hội một chỗ, chẳng phải là như vậy sao.

Ngày nay, chúng ta nghĩ lại. Nhìn lại quả địa cầu xem, thật là tương phản. Địa cầu của chúng ta đây, đều là các thượng ác nhân tụ hội một chỗ, khởi tâm động niệm đều là tổn người lợi mình,! Sự dạy dỗ của thần thánh thì lãng quên, nói đó là mê tín. Sự dạy dỗ của thánh hiền thì quá xưa, không thích hợp với thời đại, không thích hợp với khoa học, nên không cần. Không chút nể nang, cố ý làm ác.

Luân lý, đạo đức không thể làm gì được quý vị; pháp luật cũng không thể làm gì được quý vị; chính phủ không canh chừng được quý vị; hoàng đế cũng không có cách nào đối với quý vị, cuối cùng thì thế nào đây? Cuối cùng, thì sơn hà đại địa nổi giận. Chúng báo thù quý vị, quý vị có cách nào không? Vì thế, chúng ta học kỹ kinh giáo Đại thừa, thì đối với những việc nhân quả, chúng ta hiểu rõ hết. Cộng nghiệp của chúng sinh mà! Chúng ta nói với họ, họ cũng không tin. Ngày nào chúng tôi cũng giảng ở đây, gọi đó là Phật độ người có duyên. Chúng tôi dùng TV, dùng Internet, đến một lúc nào đó, họ mở kênh, thì xem được, đó là người có duyên.

Thật sự hiểu được, thì hồi tâm hướng thiện, không còn dám làm ác nữa. Người ta không tốt với mình, mình cũng không bận lòng, tha thứ cho họ, không đối địch với họ. Đối địch với họ thì oan oan tương báo, không thể chấm dứt. Đó là việc không tốt, chi bằng xóa bỏ tất cả, tự tại biết bao. Người hủy báng ta, người mạ nhục ta, người hãm hại ta, hết thảy đều xóa bỏ hết, bởi họ đều là Bồ tát, họ đều là ân nhân của ta. Vì sao vậy? Vì họ đã giúp ta tiêu trừ nghiệp chướng. Việc tốt đó! Nhờ đó, mà nâng cao cảnh giới của chính mình.

Thuận cảnh, thiện duyên, không khởi tham luyến; nghịch cảnh, ác duyên, không sinh sân hận, mãi mãi gìn giữ sự Thanh tịnh, Bình đẳng, Giác của chính mình. Đó là tiến lên, không ngừng tiến lên, cho nên họ là Bồ tát thị hiện cảnh giới này giúp chúng ta tiến lên. Nếu như quý vị chịu không nổi, trong thuận cảnh khởi tâm tham, trong nghịch cảnh khởi tâm sân, thì những người đó chính là ma. Vì sao vậy? Vì người này đưa quý vị xuống địa ngục. Thật sự có Phật, có ma ở bên ngoài hay không? Không có! Một niệm của chúng ta với thái độ chính xác đối đãi với người, thì đó là Phật. Nếu như thái độ bất thường, đối đãi với tâm oán hận, thì đó là ma. Vì thế, trong cảnh giới không Phật cũng không ma, hoàn toàn do tâm niệm thiện hay ác của chính chúng ta. Thiện niệm khởi lên, thì đều là Phật. Ác niệm khởi lên, thì toàn là ma. Ma không phải ở bên ngoài, mà ở trong tâm của quý vị.

Hàng ngày tiếp cận với Phật pháp, hàng ngày học tập giáo pháp, thì khắp cả vũ trụ đều là Phật, không thấy một con ma nào hết. Nếu như xa rời Phật pháp, đi học theo xã hội này, trong TV ngày nay, sát đạo, dâm vọng, bạo lực, sắc tình, quý vị học theo họ, thì lục căn của quý vị hoàn toàn tiếp cận với ma. Cần nên hiểu cái lý này. Sau khi thật sự hiểu rõ, thái độ của chúng ta phục hồi lại bình thường, sơn hà đại địa, hết thảy chúng sinh, không đâu chẳng phải là Phật, là Bồ tát, là A La Hán, thì thế giới Cực Lạc ở nơi đâu? Chính là ở đây.

Khi công phu của chúng ta còn chưa đủ, không có định lực thâm hậu, chưa có đủ trí tuệ để chuyển đổi cảnh giới của chính mình, thì phải làm sao đây? Ít tiếp xúc. Mặt trái nên ít tiếp xúc, mặt phải nên tiếp xúc nhiều. “Phiếm ái chúng, nhi thân nhân”. Chư Phật, Bồ tát là nhân từ, thần thánh trong tôn giáo là nhân từ, nhân viên thần chức đó là nhân từ, nên thân cận với họ, học tập với họ, thế thì tốt. Ở trong thế giới như ngày nay, chúng ta vẫn có một đời sống vô cùng hạnh phúc viên mãn, điều này trong đạo Phật thường nói, là trong cộng nghiệp có biệt nghiệp, trong biệt nghiệp có cộng nghiệp. Làm thế nào để hóa giải kiếp nạn? Đối với bản thân mà nói, thì không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước. Đối với bản thân, (lão thật) chuyên ròng niệm Phật, dùng trì danh niệm Phật, ngầm hợp đạo diệu. Đối với mọi người trong xã hội, nhất định phải tu lục hòa kính, bản thân mình học khiêm hạ, học cung kính mọi người.

Liên Trì Đại sư nói một câu rất cảm khái: “Kinh vân: Trị thế ngữ ngôn giai dữ thật tướng bất tương vi bội” (Lời nói của thánh hiền trị thế đều không chống trái với thật tướng). Cổ thánh tiên hiền tổng cương lãnh chỉ có 4 từ, quý vị xem rất đơn giản, đó là “giáo học vi tiên”. “Kiến quốc, quân dân, giáo học vi tiên”. Kiến lập một chính quyền, trị lý nhân dân trong xã hội. Cái gì quan trọng nhất? Là dạy học.

Trong gia đình cái gì là số một? Giáo dục là số một, vẫn là dạy học. Dạy học bắt đầu từ đâu? Bắt đầu từ thai giáo. Người mẹ mang thai, biết mình khởi tâm động niệm, lời nói hành động đều ảnh hưởng đến thai nhi, cho nên đi, đứng, nằm, ngồi của người mẹ phải đoan chính, thường bảo trì tâm từ bi thanh tịnh. Điều này ảnh hưởng rất lớn đối với thai nhi. Đứa trẻ ra đời là biết, nó mở mắt ra nhìn, nằm đó nó đã biết nghe. Tuy không biết nói chuyện, nhưng nó đã bắt đầu học.

Vì thế, hết thảy những hành vi không tốt, nhất định không được ở trước mặt em bé. Hết thảy những gì em bé thấy được, nghe được, tiếp xúc được phải hoàn toàn là thiện.

Vì thế, Đệ Tử Quy không phải để dạy trẻ đọc, mà khi đứa bé chào đời, cha mẹ nó ở trong nhà làm cho nó thấy. Ngày nào nó cũng thấy, nhìn đến lên 3 tuổi, thì nó học được 3 năm. Đây gọi là giáo dục từ gốc. Ngạn ngữ có câu: “Tam tuế khán bát thập” (Ba tuổi nhìn lão tám mươi). Trồng xuống thiện căn này, đó là căn lành, đến 80 tuổi cũng không thay đổi, cho nên người ta chú trọng gia giáo.

Các vị xem Hồng Lâu Mộng rồi đó. Hồng Lâu Mộng chính là một gia đình, cho nên từ nhỏ là phải phòng ngừa đứa trẻ nó có tâm ích kỷ. Từ nhỏ đã phải học đại công vô tư, nếu đứa bé có tâm ích kỷ, thì gia đình đó sẽ bị hủy hoại. Vì thế, cần nuôi dưỡng nó một quan niệm, nó ra đời, nó được ra đời là vì sao? Là vì gia đình, chứ không phải vì chính bản thân nó. Vì gia đình, vinh hiển tổ tông, vẻ vang dòng dõi, cho nên khi ra đời, nó sẽ phấn đấu, vì nó có mục đích: tôi vì gia đình. Số giàu có, giàu có cỡ nào, thì cũng quy về công, còn tiền sinh hoạt hàng ngày của mình. Trong Hồng Lâu Mộng, quý vị thấy rồi đó, hàng tháng phát tiền lương, tiền tiêu vặt, nơi ăn chốn ở quần áo v.v… đều do gia đình phụ trách, cung cấp cho quý vị.

Gia đình phụ trách nuôi trẻ, phụ trách giáo dục, phụ trách dưỡng lão, cho nên gia đình là chỗ nương tựa duy nhất trong cuộc đời của quý vị. Bất luận quý vị làm việc gì trong xã hội này, khi quý vị bị thất bại, thì gia đình vẫn là hậu thuẫn đắc lực nhất, ủng hộ, giúp đỡ quý vị. Vì thế, giáo dục gia đình rất quan trọng. Trong Đệ Tử Quy đã nói lên ý nghĩa ở trong gia đình đúng là đại công vô tư. Và trong tương lai, khôn lớn nên người, ra ngoài xã hội, đức hạnh của người này có thể phù hợp với tiêu chuẩn của cổ thánh tiên hiền.

Người này thường nghĩ đến người khác, chứ không vì chính bản thân mình, từ nhỏ đã tập được, đó là giáo dục. Trong gia đình nuôi dưỡng những người này đều là người tốt, đều là thiện nhân, quân tử, người này làm sao có thể làm việc xấu được. Làm những việc xấu trong xã hội, là do gia đình nuông chiều. Có người nói, cha mẹ anh không biết dạy anh. Cha mẹ cảm thấy tủi nhục, tổ tông cảm thấy tủi nhục, vì gia tộc này làm sao lại có một người con như vậy chứ?

Có được một người hiền, có được một người tốt, mọi người khen ngợi, gia đình khéo dạy, tổ tông có đức, quý vị xem, dạy được như thế đấy. Vì thế, gia đình hòa thuận, thì đất nước an bình. Thời xưa, trong nhiều hạng người, thì hạng nào được phục vụ tốt nhất? Là làm quan. Làm quan có lương bảng, nghĩa là thu nhập không ít, địa vị cũng rất cao quý, được người cung kính, lại chẳng phải làm gì, không có vụ án nào để giải quyết! Ai cũng là người tốt, việc gì cũng là việc hay, cho nên hoàng đế buông tay an nhàn, cũng chẳng có việc gì làm. Không có việc gì làm thì làm gì? Đọc sách, viết văn, làm thơ. Quý vị xem, Tứ Khố Toàn Thư, đó là tác phẩm văn học, hầu như một nửa là do những người làm quan viết.

Bây giờ, thì họ làm gì có thời gian. Ngày xưa, thì không có việc, cho nên quý vị thường thấy họ đi tham vấn trong thâm sơn, đi tìm các vị đạo trưởng, các vị pháp sư, tới lui kết bạn, hấp thụ văn hóa cao sâu của Nho, Thích, Đạo. Trong hết thảy mọi công việc, công việc nhẹ nhàng nhất, dễ chịu nhất, và được mọi người tôn kính nhất, đó là công việc làm quan, cho nên “học nhi ưu tắc sĩ” (học mà giỏi thì làm quan). Ngày nay, thì không phải vậy. Ngày nay, trong công việc, chúng ta thấy rất rất nhiều người làm quan, họ đều dạy con cái mình, không nên làm công việc này, khuyến khích chúng làm thương gia, hoặc làm những công việc khác.

Thế giới thay đổi rồi. Thay đổi thế nào? Đã xếp giáo dục vào chỗ cuối cùng, nhưng ngày xưa, đất nước đặt nền giáo dục vào số một! Ở Trung Quốc từ thời triều Hán về sau, Trung Quốc có 2 hệ thống giáo dục: Thứ nhất là nền giáo dục của Nho giáo, thứ hai là nền giáo dục của Phật giáo. Giáo dục của Phật giáo, chính bản thân Hoàng đế nắm giữ, quản lý; giáo dục của Nho giáo, thì Thừa tướng quản lý; dưới Thừa tướng có một bộ, gọi là Bộ Giáo dục, thời đó không gọi là Bộ Giáo dục, mà gọi là Lễ Bộ. Lễ Bộ Thượng thư, chính là Bộ trưởng Bộ Giáo dục. Người này quản lý việc hướng đến toàn quốc phổ biến nền giáo dục Nho giáo.

Giáo dục của Phật giáo do Hoàng thượng quản lý, cho nên giáo dục của Phật giáo phổ biến dễ dàng hơn Nho giáo. Người dân sùng kính Hoàng thượng, cho nên giáo dục của Phật giáo nhanh chóng phổ biến đến toàn quốc, ngay cả một thôn nhỏ cũng có miếu, cũng có chùa. Với 2 loại giáo dục, Phật giáo dùng Thập Thiện Nghiệp Đạo, Nho giáo dùng Đệ Tử Quy, Đạo giáo dùng Cảm ứng Thiên. Đây thuộc về nền giáo dục luân lý, đạo đức, nhân quả, cho nên xã hội duy trì được trị an lâu dài. Người dân ai ai cũng học được khiêm hạ, kính nhường, không tranh! Đây cũng là điều Thang Ân Tỷ nói, giải quyết vấn đề xã hội của thế kỷ 21 hiện nay, cần đến học thuyết Khổng, Mạnh và Phật giáo Đại thừa. Ông ta là nhà lịch sử triết học, chuyên môn nghiên cứu văn hóa sử, ông biết được kinh nghiệm 5.000 năm của Trung Quốc, 5.000 năm của trí tuệ, phương pháp, và thành tựu, đáng để ngày nay tham khảo!

“Lời nói của Thánh hiền trị thế đều tương ưng với thật tướng”. Văn hóa truyền thống, chính là Nho, Thích, Đạo. Nói tổng thể, văn hóa là văn hóa Hiếu đễ. Nhà Nho, từ Hiếu đễ phân ra làm 4 khoa mục là: Ngũ luân, Ngũ thường, Tứ duy, Bát đức, rất dễ nhớ! Đây là tổng đại cương. Thiên kinh vạn luận đều không thể rời tông chỉ này. Đó chính là “tương ưng với thật tướng”, cho nên nó vĩnh hằng bất biến. Trong mấy ngàn năm rồi, thay đổi triều đại đã bao nhiêu lần, lý niệm giáo dục, chính sách giáo dục, phương pháp giáo dục, chưa hề bao giờ thay đổi, đều có thể tuân thủ.

Chỉ sau này, từ từ cách xa, học theo phương Tây. Hiện nay, bản thân phương Tây có vấn đề, phải làm sao đây? Bản thân họ đối với những vấn đề xã hội, thiên tai tự nhiên… của mình, họ không thể giải quyết được. Vì thế có người hướng về phương Đông tìm của báu, tìm những thứ cổ thánh tiên hiền của Trung Quốc, đến Ấn Độ tìm Phật pháp, tìm Bà La Môn, tìm cách giải quyết, làm thế nào để cứu địa cầu, để hóa giải nạn tai. Liên Trì Đại sư cảm thán:

Vân hà vạn đức hồng danh, bất cập trị thế nhất ngữ?” (Sao có thể hồng danh của vạn đức không bằng một câu an dân trị thế).

Hàm ý trong câu Phật hiệu này rất sâu rất rộng. Nó là tổng đại cương của giáo lý Đại thừa, giống như Hiếu đễ của nhà Nho vậy. Vạn đức hồng danh tương đương với tổng đại cương của Hiếu đễ trong nhà Nho. Câu A Di Đà Phật có phải là tổng đại cương hay không? Phải! Quý vị xem Phật A Di Đà triển khai ra chính là 48 nguyện. 48 nguyện triển khai ra là kinh Vô Lượng Thọ. Kinh Vô Lượng Thọ triển khai ra là kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm. Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm triển khai ra là hết thảy kinh mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói trong 49 năm. Phật A Di Đà là nguồn cội. Thật sự các vị học Tịnh Tông ngày nay, người có thể giảng giải về Phật A Di Đà một cách rõ ràng, không nhiều.

Chúng ta xem tiếp đoạn sau: “Hựu Viên Trung Sao viết” (Lại, trong Viên Trung Sao ghi:). Viên Trung Sao là chú giải kinh Di Đà của Đại sư U Khê. “Tứ minh vân” (Ngài Tứ Minh nói). Tứ Minh tôn giả của Tông Thiên Thai.

“Viên cực chi quả, sở hữu danh tự, nhất nhất bất hư, cứu cánhthành tựu, cái kỳ sở chiêu, giai cực chân cố” (Quả viên mãn tột cùng, vốn có những danh tự, thảy đều không giả dối, thành tựu rốt ráo, bởi những gì nó chiêu cảm đều là chân thật đến tột cùng). Phật A Di Đà chứng được cứu cánh viên mãn. Chúng ta niệm danh hiệu Phật này, mục đích là gì? Mong rằng chúng ta giống như đức Phật Di Đà chứng được viên mãn. Như thế là đúng. Làm được không? Được!

Chỉ cần quý vị dùng câu A Di Đà Phật này, trong cuộc sống hàng ngày của quý vị, dùng nó thay thế cho khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước, thì sẽ thành công ngay. Vừa mới khởi niệm là A Di Đà Phật, hết thảy đều quy về A Di Đà Phật, không để cho khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước trổi dậy. Dùng danh hiệu Phật đè nén nó, khống chế nó, lâu ngày chày tháng thì không còn nữa, không hề hay biết là mình đã thành A La Hán, thành Bồ tát, thành Phật rồi. Niệm niệm vô lượng giác. Giác chứ chẳng mê, đó là nghĩa này. Quý vị phải biết niệm. Vừa có chấp trước là mê rồi, A Di Đà Phật quay về vô lượng giác. Vừa có phân biệt là mê rồi. Khởi tâm động niệm là mê rồi. Dùng phương pháp nào để phá mê khai ngộ đây? Dùng một câu A Di Đà Phật, rất có tác dụng, rất hữu hiệu.

Không nên bị người ta lường gạt. Trên thế giới ngày nay có quá nhiều người lường gạt. Yêu ma, quỷ quái nơi nào cũng có, quý vị không đi theo Phật thì đi theo ai? Nhất định không được đi theo quỷ thần, nhất định không được đi theo tà ma. Đầu tiên quý vị phải có được Tuệ nhãn. Đối với con người, đối với sự việc quý vị phải thấy được rõ ràng minh bạch, thì quý vị mới không bị mắc lừa. Vì thế, hết thảy danh tự, chính là lục tự hồng danh: Nam mô A Di Đà Phật. “Thảy đều không giả dối, thành tựu rốt ráo, bởi những gì nó chiêu cảm đều là chân thật đến tột cùng”, tức cùng tương ưng với tự tính. Đối với những thứ khác không tương ưng, mà tương ưng với tự tính, tương ưng với trí tuệ. Đức, tướng sẵn có trong tự tính.

Cố đại kinh vân (Vì thế, Đại kinh nói:). Đại kinh ở đây chính là kinh Vô Lượng Thọ. “Thế đế đản hữu danh, vô thật nghĩa” (Thế đế (sự thật của thế gian) chỉ có danh ngôn, không có nghĩa thật). Thế đế giảng cái gì? Giảng về mười pháp giới, không chỉ riêng lục đạo. Vì sao vậy? Nó không tương ưng với tự tính. “Đệ Nhất nghĩa đế, có danh có nghĩa thật”. Lục tự hồng danh là Đệ Nhất nghĩa đế. Vô lượng giác là danh. Tự tính đích thật là vô lượng giác, hơn nữa vô lượng giác không sinh diệt. Đức Thế Tôn nói trong kinh Hoa Nghiêm, hết thảy chúng sinh đều có đức tướng, trí tuệ của Như Lai. Đây là có danh có nghĩa thật.

Phật là cứu cánh Đệ Nhất nghĩa đế. Phật là ai? Là chính mình đây, chẳng phải là người khác, bởi mình vốn là Phật. Bây giờ có phải là Phật không? Bây giờ chưa là Phật, chỉ vì bây giờ trong tự tính của quý vị có lớp chướng ngại, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Những thứ này đã làm chướng ngại quý vị. Nếu nói theo pháp thế gian, quý vị là một ông Phật hồ đồ, quý vị có chướng ngại. Một ông Phật chướng ngại, sau khi bỏ hết chướng ngại, thì quý vị chính là bậc Đại giác có trí tuệ.

Quý vị xem, có 3 loại chướng ngại. Bỏ đi 1 loại là chấp trước, quý vị thành Chính Giác, trong đạo Phật gọi là A La Hán. Buông bỏ tâm phân biệt, quý vị thành Chính Đẳng Chính Giác, trong đạo Phật tôn xưng quý vị là Bồ tát. Buông bỏ vô minh. Vô minh là khởi tâm động niệm cực kỳ vi tế. Buông bỏ được cái này, thì quý vị thành Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác. Quý vị hoàn toàn hồi quy tự tính. Quý vị là cứu cánh viên mãn Phật. Quý vị sẽ thành Phật, bởi quý vị vốn là Phật. Trong Phật giáo nói đến tín tâm. Đây là tín tâm quan trọng nhất. Đối với điều này, quý vị không tin, thì sự công phu tu tập của quý vị vĩnh viễn không bao giờ thành tựu. Vì thế, đạo Phật không giống với những tôn giáo khác. Đó là sự thật đấy.

Quý vị xem, đạo Phật nói về thế giới Cực Lạc: Đó không phải là một quốc gia, vì nơi đó không có chính phủ, không hề nghe nói thế giới Cực Lạc có hoàng thượng, đại thần, thị trưởng v.v… Vậy thế giới Cực Lạc là gì? Thế giới Cực Lạc là một lớp học, sống ở bên đó chỉ có 2 hạng người, thầy giáo và học sinh, là lớp học. Vì thế, chúng ta nên xem thế giới Cực Lạc như một khu vực, nó không phải là một quốc gia. Trong tôn giáo nói, thì đó là quốc gia, có Thượng đế, có tổ chức chính phủ, Cực Lạc không phải vậy, cho nên đó là trường học.

Chư Phật Như Lai mười phương cùng nhau mở một trường học ở đó. Phật A Di Đà là Hiệu trưởng, Quan Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền đều là Giáo thọ ở đó, cho nên đến đó là người cầu học, là người thành tựu. Khi quý vị thật sự thành Phật rồi, quý vị không thể ở luôn nơi thế giới Cực Lạc. Điều đó không thể được. Trường học không thể ở như nhà mình. Sau khi đã thành tựu, quý vị nên làm như đức Phật, đi giáo hóa chúng sinh trong khắp pháp giới hư không giới. Nơi nào có duyên, thì đến nơi đó. Điều này, nhất định phải hiểu rõ.

Quý vị xem, những tôn giáo khác, sinh lên thiên đường, về được thiên quốc, thì sẽ an cư nơi đó, nhập khẩu ở đó. Thế giới Tây Phương Cực Lạc, thì không phải vậy. Học thành công rồi, thì mau chóng rời trường học, để đi làm sự nghiệp dạy học của mình, hoàn toàn khác. Chư Phật, Bồ tát đối với thiên quốc rất tôn trọng, gặp Thiên vương, Thượng đế, cũng tôn trọng tán thán, chúng ta thường thấy trong kinh điển.

“Hựu kim Di Đà ký dĩ chứng hồ cứu cánh Đệ Nhất nghĩa đế, cố nhất xưng gia danh, vạn đức tề chương, Di Đà vạn đức.Tuệ nhật, ký dĩ cụ thể tề chương, chúng sinh hắc ám tội hà, tự nhiên đương niệm tiêu hồ trần kiếp” (Lại nay, đức Di Đà đã chứng minh đó là Đệ Nhất nghĩa đế rốt ráo, cho nên một khi xưng danh hiệu Ngài, thì muôn đức đều sáng tỏ, đó là muôn đức Di Đà. Như mặt trời Tuệ, vốn có đầy đủ ánh sáng, tội lỗi đen tối của chúng sinh như sông biển, một khi niệm đến Ngài, tội lỗi từ bao kiếp tự nhiên sẽ tiêu trừ).

Đây là nói đến diệt tội. Có tội hay không? Có tội. Làm thế nào diệt đây? Chuyển niệm, chính là tiêu diệt. Giác là diệt rồi. Tội là từ mê mới cảm nên. Giác ngộ thì không còn nữa. Trong kinh, đức Phật nói một ví dụ rất dễ hiểu, nghiệp tội giống như bóng tối, gọi là ngàn năm trong phòng tối. Nghiệp tội của tôi nặng quá, lâu ngày rồi, thắp ngọn đèn lên, thì bóng tối không còn nữa. Ngọn đèn đó là gì vậy? Là giác ngộ, là khai mở trí tuệ. Ánh sáng trí tuệ chiếu đến, thì bóng tối sẽ tan biến.

Vì thế, tạo hết thảy nghiệp tội không đáng sợ, chỉ sợ quý vị không giác thôi. Nếu quý vị không giác sẽ chiêu cảm quả báo là tam đồ địa ngục, cái đó hiện tiền. Nếu thật sự giác ngộ, thì cái đó không còn nữa. Vì thế, trong kinh dạy chúng ta rằng: Nhất niệm thập niệm. Ngũ nghịch, Thập ác, biết Nhất niệm thập niệm, đều có thể vãng sinh về thế giới Tây Phương Cực Lạc. Sinh về đó đều là Bồ tát A Duy Việt Trí, một đời quyết định chứng được cứu cánh viên mãn. Đây là sự thật, không hề dối trá. Lý này cũng chính là, “Phàm hễ có tướng đều làhư vọng, hết thảy pháp hữu vi như mộng huyễn bào ảnh”. Đây chính là nguyên lý.

Dưới đây dạy rằng: “Tội tính bản không, hư nhi bất thật” (Tội tính vốn không, giả mà không thật). Giác ngộ thì không còn, nhưng không giác ngộ thì vẫn có. Giáo dục của Phật giáo không gì khác ngoài việc giúp cho chúng ta giác ngộ, giúp cho chúng ta hồi phục trở lại bình thường.

Đức Phật thật sự không có gì dạy cho chúng sinh. Vì sao? Vì trí tuệ, đức năng, tướng hảo quý vị vốn sẵn có mà. Hết thảy đều ở trong tự tính thôi. Giống như Huệ Năng Đại sư khi khai ngộ nói rằng: “Hà kỳ tự tính, bản tự cụ túc” (Sao kỳ lạ! Tự tính vốn tự đã đầy đủ).

Không thiếu thứ gì hết, thì đức Phật lấy gì để dạy quý vị chứ? Ngài chỉ khuyên quý vị quay đầu, nói cho quý vị biết, quý vị không thiếu một thứ gì. Quý vị cùng chư Phật Như Lai không hai không khác. Chỉ là mê lầm tự tính, trí tuệ biến thành phiền não, đức năng biến thành tạo nghiệp, tướng hảo biến thành tam đồ lục đạo, bị biến chất hết rồi. Do đó, chúng ta cần hiểu, cần nên quay đầu, phải thật sự nghĩ điều tốt, nói lời hay, làm điều lành, làm người lương thiện.

Dưới đây có mấy câu: “Tội tính bản không. Hư nhi bất thật giả ký tiêu. Tắc xưng danh công đức. Phước đẳng hư không giả tự sinh” (Tội tính vốn không. Giả mà không thật đã tiêu. Lúc ấy, công đức xưng danh. Phước như hư không tự sinh). Tiêu tai rồi, thì phước sẽ đến. Vì sao vậy? Vì phước là quý vị vốn sẵn có. Trong tự tính có vô lượng tướng hảo. Đây là phước báo, nhưng vì quý vị mê mờ tự tính, bị nghiệp tội làm chướng ngại, nên không thấy. Nghiệp tội tiêu trừ rồi, thì chẳng phải là phước báo hiện tiền hay sao? Chính là lý này vậy.

Phương pháp tiêu trừ nghiệp tội hay nhất, không gì hay hơn niệm Phật, cho nên trong kinh có dạy câu này: “Một tiếng niệm Phật, tiêu trừ tám mươi ức kiếp tội nghiệp sinh tử”. Có đúng như vậy không? Đúng, không sai một chút nào. Chúng ta niệm Phật, thật sự là tiêu trừ được chăng? Do quý vị không biết niệm thôi. Thế nào gọi là biết niệm? Dùng tâm chân thành niệm, dùng tâm thanh tịnh niệm, dùng tâm bình đẳng niệm, dùng tâm từ bi niệm.

Nếu không dùng tâm ấy, thì quý vị niệm danh hiệu Phật, trong đó những tạp niệm hoài nghi, vọng tưởng, những tạp niệm khác nữa, khiến Phật hiệu này không thuần, không thể khởi tác dụng; nhất định phải thuần, không thể có tơ hào tạp niệm. Xưa, thầy Lý thường dạy chúng tôi, ví dụ nói, thí như đề hồ là món ăn ngon nhất của chư thiên. Trong ly đề hồ này, nhỏ một giọt thuốc độc vào đó, thì nguyên cả ly đã biến thành thuốc độc. Dùng đề hồ ví dụ cho Tính đức của chúng ta. Thuốc độc là tập khí phiền não. Chỉ cần có một chút xíu thôi, thì trí tuệ của quý vị hoàn toàn biến thành phiền não. Đức năng của quý vị hoàn toàn biến thành bực bội. Quý vị tạo nghiệp rồi. Điều này chẳng thể không biết.

“Cứ thượng sao nghĩa, nhất xưng danh hiệu, công đức thượng nhiên, huống bản kinh phát Bồ đề tâm, Nhất hướng chuyên niệm giả hồ” (Cứ theo nghĩa văn Sao trên nói, Nhất tâm xưng danh hiệu Phật công đức còn vậy, huống là kinh Vô Lượng Thọ này, còn khuyên phát Bồ đề tâm một hướng chuyên niệm ư!)

Đây là căn cứ vào ý nghĩa trong Viên Trung Sao nói: “Nhất xưng danh hiệu, công đức thượng thả như thử, nhất xưng gia danh, vạn đức tề chương”. Nhất xưng, từ “nhất” ở đây, chúng ta cần nên chú ý. Then chốt là ở từ này. Nhất nghĩa là sao?

Nhất là Nhất tâm. Nhất tâm nghĩa là thế nào? Nghĩa là không có hoài nghi, không có tạp niệm, thế mới gọi là nhất, là thuần nhất. Nếu chúng ta có hoài nghi, thiệt không? Có thật sự là hay như vậy không? Thế thì không được. Có những vọng niệm tạp nhạp ở trong đây, thì không còn linh nữa. Nhất xưng là Nhất tâm xưng niệm, vạn đức tề chương. Câu này, đoạn trước chúng ta cũng đọc qua rồi. Một niệm tương ưng một niệm Phật. Niệm niệm tương ưng niệm niệm Phật. Nhất niệm này có tương ưng với A Di Đà Phật hay chăng? Chắc chắn là tương ưng, quý vị không nên hoài nghi. Vì sao vậy? Vì trong Hoàn Nguyên Quán có nói, một niệm cực kỳ vi tế, vừa mới động, thì tốc độ của nó đã châu biến pháp giới.

Tuyệt đối không phải là tốc độ của ánh sáng, hay tốc độ của điện từ, không cách nào so sánh với nó được. Ánh sáng mặt trời chiếu đến địa cầu, cần phải 8 phút mới tới nơi, chúng ta khởi tâm một cái lập tức châu biến pháp giới, ánh sáng làm sao so sánh được.

Vì thế, một niệm vừa khởi lên, thì chư Phật, Bồ tát trong khắp pháp giới hư không giới, bèn nhận được hết. Quý vị cần nên biết chân tướng sự thật này. Quý vị có sợ không? Đừng tưởng rằng khởi ác niệm lên người khác không biết. Hết thảy chư Phật, Bồ tát mười phương đều biết hết, quý vị giấu ai được? Chỉ có thể giấu được chúng sinh ngu si trong lục đạo, vì chúng không biết, còn quỷ thần, vì có ngũ thông, những việc nhỏ, những việc gần, chúng vẫn có thể biết được một cách rõ ràng sự việc ít nhất trong 2-3 tháng; hơn nữa thì chưa chắc, vì thần thông của nó không lớn đủ.

Vì thế, đôi khi quý vị thấy nó nói về kiết hung phước đức rất linh, rất linh nghiệm. Đó là gì vậy? Đó là những việc rất gần, nếu nói xa, thì không tin tưởng được. Do vậy, niệm Phật thật sự có thể diệt tội. Bất luận có hiển lộ rõ ràng hay không, nhưng chắc chắn là diệt tội được. Tội của chúng ta không diệt được, là vì một bên chúng ta diệt, một bên lại sinh ra, cho nên mãi mãi không bao giờ diệt được là vậy. Bên kia diệt, bên này không sinh, thì sẽ diệt được hết, nhất định phải hiểu rõ. Trong kinh Địa Tạng nói, chúng sinh trong cõi Diêm Phù Đề, khởi tâm động niệm không gì chẳng phải là tội.

Muốn giải quyết vấn đề này, không có cách nào khác, người xưa dạy chúng ta, “một môn thâm nhập, luôn thời chuyên tu”, thì sẽ giải quyết được vấn đề. Quý vị thật sự có tâm nhẫn nại, quý vị thật sự có tâm kéo dài, hạ thủ công phu. Định! Tâm định trên bộ kinh này. Tu tập bộ kinh này 10 năm, tâm định rồi, không có những tạp niệm khác, thì hiệu quả sẽ hiển hiện.

Kinh này, người xưa hướng dẫn cho chúng ta, thật sự có thể nói Phật Thích Ca Mâu Ni, đến thế gian này, trụ thế 79 năm, giảng kinh thuyết pháp 49 năm, đây chính là đệ nhất trong các kinh, có thể thay cho tất cả. Chỉ cần quý vị chịu tin tưởng nó, thật sự thọ trì nó, buông bỏ vạn duyên, Nhất tâm đọc tụng, xưng niệm, thì sự thành tựu của quý vị rất nhanh chóng, nghiệp chướng được tiêu trừ, và trí tuệ sẽ hiện tiền.

Đoạn dưới đây: “Hựu trì danh tức thị thậm thâm Bát nhã” (Lại, trì danh chính là trí Bát nhã rất sâu). Đây là ngầm hợp Bát nhã. Trong kinh Bát Nhã nói: “Bát nhã vô tri, vô sở bất tri”. Vô tri nghĩa là sao? Là Căn bản trí. Nó là căn bản. Khi nó khởi tác dụng, thì không có gì không biết. Người thế gian chúng ta hiện nay cầu cái gì? Đang cần cầu hữu tri. Đó không phải là Bát nhã. Cái mà họ cầu đó là tri thức. Tri thức hữu tri, còn có cái không biết, nên nó không viên mãn.

Vô tri nghĩa là sao? Vô tri là tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh sinh trí tuệ. Hữu tri là gì? Là vọng tưởng, tạp niệm, trong đạo Phật gọi là Sở tri chướng. Sở tri chướng sinh ra cái gì? Sinh ra tri thức, không phải là trí tuệ. Tâm thanh tịnh sinh trí tuệ. Tâm phân biệt, chấp trước, sinh phiền não, hoàn toàn khác nhau, cho nên tri thức và trí tuệ là 2 chuyện khác nhau.

Trí tuệ có thể giải quyết được hết thảy các vấn đề, không có di chứng. Tri thức có thể giải quyết được một số vấn đề, nhưng để lại một đống di chứng. Xã hội ngày nay, phổ biến truy cầu tri thức, còn trí tuệ thì chẳng có ai cầu. Người cầu trí tuệ, thân tâm thanh tịnh. Quý vị xem hiện tướng của người này, xem nhẹ danh lợi, tâm của người này định, ngôn ngữ của họ định, hành vi của họ cũng định. Trong kinh gọi người này là: “Na già thường tại định, vô hữu bất định thời” (Na già thường tại định, không có thời nào không định).

Người này vĩnh viễn là Tĩnh quán pháp giới. Người này thấy được rõ ràng, minh bạch. Vì thế, ngày xưa, những người có chức có quyền, gặp phải vấn đề khó khăn, không giải quyết được, đi tìm ai đây? Tìm Đạo trưởng, tìm Hòa thượng, thỉnh giáo với họ. Họ thật sự có thể giúp cho người này giải quyết vấn đề. Điều này phù hợp với ngạn ngữ: “Đương cục giả mê, bàng quan giả thanh” (Trong cuộc thì tối, ngoài cuộc thì sáng). Họ là những người bàng quan. Bàng quan nghĩa là sao? Là không có lợi, hại, được, mất, nên họ thấy rất rõ ràng. Vì sao quý vị không thấy được rõ ràng? Vì trong đó, quý vị có lợi, hại, được, mất. Trong suy nghĩ của quý vị xen lẫn những thứ này, xen lẫn lợi, hại, được, mất, nên quý vị không thể thấy rõ ràng.

Những người đó, chuyện lợi, hại, được, mất, hoàn toàn không tương can, nên họ có cái nhìn rất khách quan. Quý vị thấy không rõ, vì quý vị chủ quan. Chủ quan, nghĩa là quý vị có thành kiến. Họ không có thành kiến, nên họ thấy rõ ràng. Đạo lý ở chỗ này. Vì thế, đây không phải là mê tín, cũng chẳng phải có diệu pháp gì, rất đơn giản.

Niệm đắc thuần thục, vạn duyên tề phóng, năng sở đốn không, tức thị vô trụ” (Niệm đắc thuần thục, vạn duyên đồng loạt buông, Năng-sở tức thì Không, tức là vô trụ). Kinh Kim Cương nói, vô trụ sinh tâm. Tâm thanh tịnh hiện tiền, vạn duyên buông xuống, trong tâm chỉ có một câu niệm Phật. Ngoài câu niệm Phật ra, không có gì hết. Đây là vô trụ.

“Ư thử chi thời, nhất cú Phật hiệu, lãng nhiên minh bạch, tương tục bất đoạn, tức thị sinh tâm” (Ngay trong lúc này, một câu Phật hiệu, rõ ràng tự nhiên, nối nhau không dứt, chính đó sinh tâm). Tâm của người này sinh, niệm niệm đều là A Di Đà Phật. Một câu A Di Đà Phật này, tâm tâm tương ấn cùng với Phật A Di Đà ở Tây Phương Cực Lạc.

“Thử bản chúng sinh hành bất đáo xứ, tư dĩ niệm Phật cố, ám hợp đạo diệu” (Chúng sinh cõi này, thực hành không đạt đến, nay vì lấy việc niệm Phật cho nên ngầm hợp diệu đạo).

Quý vị nghĩ xem, người phàm phu bình thường, làm thế nào có thể kết nối được với Phật A Di Đà chứ? Ngày nay, gọi là đường dây nóng. Đường dây nóng này làm thế nào có thể kết nối được với Phật A Di Đà đây? Một câu niệm Phật, niệm đến thuần thục, thì kết nối được. Sở dĩ không kết nối được, là vì quý vị có tâm hoài nghi, có xen lẫn, có gián đoạn.

Bồ tát Đại Thế Chí dạy phương pháp niệm Phật, không sai một chút nào: “Đô nhiếp lục căn” (Hoàn toàn nhiếp phục 6 căn), chính là buông bỏ vạn duyên. Buông bỏ những gì mắt thấy, mũi ngửi…, 6 căn tiếp xúc với cảnh giới 6 trần, đều không để vào trong tâm. Đó gọi là Đô nhiếp lục căn. Chẳng phải nói quý vị không thấy, không nghe. Không có nghĩa như vậy. Vì sự thấy, nghe hay biết của phàm phu chúng ta đều để trong tâm. Vừa để vào tâm, lập tức tâm khởi lên phân biệt, chấp trước, tâm liền bị nhiễm ô.

Chúng ta cần làm như thế nào đây? Thấy mà không thấy, nghe mà không nghe, cũng có nghĩa là quyết định không dùng tâm ý thức, như thế thì không khác gì Bồ tát. Tâm là A Lại Da. Tâm là gì? Nhớ, lưu lại ấn tượng. Mạt Na là chấp trước. Ý thức là phân biệt. Không dùng tâm ý thức, chính là không phân biệt, không chấp trước, không khởi tâm, không động niệm. Đây gọi là Ly tâm ý thức. Ly tâm ý thức là Bồ tát. Bồ tát làm được như vậy.

Trong Phật pháp gọi là tham. Tham là tham cứu, chứ không phải là nghiên cứu. Trong nghiên cứu có tâm ý thức, nghĩa là có phân biệt, chấp trước. Tham cứu không có phân biệt, chấp trước, cho nên nó thuộc về trực giác. Đó gọi là Vô trụ sinh tâm.

“Ám hợp đạo diệu, bất hành nhi hành, vô đáo nhi đáo, cú cú thị Phật tri kiến, niệm niệm phóng Bát nhã quang, mật giáo vị thanh tự giai thật tướng” (Ngầm hợp diệu đạo, không hành mà hành, không đến mà đến. Từng câu đều là tri kiến Phật. Từng niệm phóng ánh sáng Bát nhã. Trong Mật Giáo gọi Thanh - Tự đều là Thật tướng).

Thanh là âm thanh. Tự là văn tự. Âm thanh, văn tự không gì không phải Thật tướng. Chỉ cần không lạc vào tâm ý thức, thì đều là Thật tướng.

“Cố niệm Phật danh tức thị niệm thật tướng, trì danh niệm Phật, vô dị thật tướng niệm Phật” (Vì thế, niệm danh hiệu Phật, chính là niệm Thật tướng. Trì danh niệm Phật, không khác Thật tướng niệm Phật).

Người tu tập nên biết niệm. Chư vị tông môn thường hỏi: Biết không? Biết! Đích thực Trì danh chính là Thật tướng. Thật tướng là dùng Trì danh. Dùng Trì danh có thể đạt được Thật tướng. Thật tướng và Trì danh không hai không khác. Đoạn này nói rất hay. Đoạn dưới đây, tiếp theo đoạn trên, đều là lời chỉ dạy rất quan trọng trong việc tu tập. Chúng ta siêng năng học tập, và áp dụng không những có lợi đối với cuộc sống hiện tại, mà còn có thể nâng cao cảnh giới, hy vọng tương lai đến được thế giới Cực Lạc, thân cận Phật A Di Đà, giúp ích cho chúng ta rất lớn.

 

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 49)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 48)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 47)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 209
    • Số lượt truy cập : 8560545