Thông tin

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH GIẢI DIỄN NGHĨA - TẬP 37

 

 

Chủ giảng: LÃO PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG

*****

Trưởng ban biên dịch:

TK. Thích Đồng Bổn

 

QUYỂN 4

(Tập 31-40)

 

TẬP 37

 

Biên dịch: Tử Hà - Biên tập: Bình Minh

 

Chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, xin xem tiếp Đại thừa Kinh Vô Lượng Thọ Giải, trang thứ 39, dòng thứ 3, từ dưới lên. Bắt đầu học từ chữ Giáp.

“Giáp, thượng bối vãng sinh, duy thị Bồ tát, bản kinh minh tam bối vãng sinh, mỗi bối tái phân tam phẩm, tắc đồng ư Quán Kinh trung chi cửu phẩm. Đường Thiện Đạo Đại sư dĩ tiền chi cổ đức chư sư, vị vãng sinh Cực Lạc Thượng phẩm Thượng sinh giả, thị tứ địa chí thất địa dĩ lai Bồ tát” (Một, loại thượng vãng sinh chỉ là Bồ tát. Kinh này nói 3 loại vãng sinh, mỗi loại chia ra 3 phẩm, thì đồng như 9 phẩm trong kinh Quán Vô Lượng Thọ. Các vị Tổ sư cổ đức trước Ngài Thiện Đạo đời Đường, đều cho những ai được vãng sinh loại thượng thượng phẩm đều là Bồ tát từ Tứ Địa đến Thất Địa).

Từ xưa đến nay, có rất nhiều chư vị tiền bối, cách giảng của mỗi người không giống nhau. Giảng giải tuy nhiều, nhưng quy nạp lại không ngoài 3 hạng. Hạng người thứ nhất là Thượng bối vãng sinh, cũng chính là Thượng bối tam phẩm, Thượng thượng phẩm, Thượng trung phẩm, Thượng hạ phẩm. Đây toàn là Bồ tát. Nói cách khác, không phải người bình thường.

Trong đây, Niệm Công nói ngắn gọn cho chúng ta dễ hiểu. Kinh này nói 3 loại vãng sinh, mỗi loại chia ra 3 phẩm, thì đồng như 9 phẩm trong kinh Quán Vô Lượng Thọ.

Các vị Tổ sư cổ đức trước Ngài Thiện Đạo đời Đường, đều cho những ai được vãng sinh loại thượng thượng phẩm đều là Bồ tát từ Tứ Địa đến Thất Địa. 4 cấp bậc: 4, 5, 6, 7, vãng sinh về thế giới Tây Phương Cực Lạc. Thượng trung phẩm là từ Sơ Địa đến Tứ Địa, cũng là 4 cấp bậc. Thượng, hạ phẩm là Bồ tát chủng tính Đại thừa trở lên đến Sơ Địa.

Ở đây, nói đến chủng tính Đại thừa. Chủng là chủng tử, nghĩa là trong A Lại Da thức; ngày nay chúng ta nói là ấn tượng. Nó có nghĩa là Năng sinh, giống như chủng tử của thực vật vậy. Chủng ở đây thêm vào một chữ tính. Tính là thể tính. Tính có nghĩa là vĩnh hằng bất biến, cho nên nói là Tính thể. Nghĩa là sao?

Trong Hoàn Nguyên Quán nói, “Tự tính thanh tịnh viên minh thể”. Trong Triết học nói là bản thể của vạn hữu, không thể xa rời nó. Trong ví dụ của chúng tôi nói, thể chính là màn hình của TV, thức Năng sinh, Năng biến. Nó có sinh diệt, là những cảnh tượng hiện ra trên màn hình. Nói đến chủng tính, có nghĩa là Năng sinh, Năng hiện, Năng biến, bao gồm tất cả. Trong kinh giáo Đại thừa thường nói, tâm hiện thức biến. Chủng tính có nghĩa là như vậy. Chủng là chủng tính Đại thừa. Kinh Anh Lạc có nói, có 5, 6 chủng tính. 5 chủng tính là nói từ nhân. 6 chủng tính là nói vừa nhân vừa quả.

Ở đây, chúng tôi sơ lược giới thiệu qua một chút. Thứ nhất là Tập chủng tính. Đạo Phật thường nói tập khí, chính là Tập chủng tính. Tập chủng tính trong Đại thừa, dĩ nhiên là quý vị đã huân tập rất lâu trong giáo lý Đại thừa. Học tập kinh giáo Đại thừa, là nói đến nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu. Huân tu thật sự có chủng tính này. Thật sự có chủng tính này, nó sẽ khởi tác dụng. Nó khởi tác dụng gì đây? Trong Hoàn Nguyên Quán nói ngũ chỉ lục quán. Nó khởi tác dụng này đấy. Tác dụng này, có thể chiếu kiến ngũ uẩn giai không, có thể phá phiền não Kiến Tư hoặc. Nếu như không thể chiếu kiến ngũ uẩn giai không, thì không thể đoạn trừ phiền não Kiến Tư hoặc. Không đoạn được, thì không ra khỏi tam giới, không ra khỏi luân hồi lục đạo, không ra khỏi mười pháp giới.

Những điều trong kinh Anh Lạc nói là Đại thừa có Biệt Giáo và Viên Giáo. Cảnh giới của Biệt Giáo và Viên Giáo khác nhau rất nhiều. Hoa Nghiêm nói về Viên Giáo, nhưng mà thông thường, thì nói về giáo nghĩa của Biệt Giáo nhiều hơn. Như trong kinh Anh Lạc nói, đó chính là giáo nghĩa của Biệt Giáo, vì nó còn ở trong phẩm vị Tam Hiền. Đoạn hết phiền não Kiến Tư hoặc, công phu đoạn chứng bằng với A La Hán. Người này đến cảnh giới nào? Đến quả pháp giới Thanh Văn trong pháp giới Tứ thánh. Trong Hoa Nghiêm, thì người này đến Thất Tín trong Thập Tín vị, nhưng vẫn chưa đến Sơ Trụ. Sơ Trụ là chứng quả, chẳng phải là nhân.

Trong mười pháp giới, Phật, Bồ tát, Duyên Giác, Thanh Văn, trong Đại thừa giáo đều là nhân vị, đều đang tu nhân. Từ đó cho thấy, Không quán quan trọng. Nghiên cứu Không quán, cũng chính vì lý do này, cho nên kinh Kim Cương ở Trung Quốc, trong số kinh điển sự nổi tiếng của nó đứng hạng nhất. Rất nhiều người biết có kinh Kim Cương, còn những kinh khác thì họ không biết. Xưa nay, chẳng ai là không biết kinh Kim Cương. Kinh Kim Cương phá Không, “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”, “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn, bào ảnh” (Phàm những gì có tướng đều là hư vọng. Hết thảy pháp hữu vi như mộng, huyễn, bọt, bóng). Dạy chúng ta tu tập, hạ thủ công phu từ đâu đây? Từ chỗ phá 4 tướng: Ngã tướng, Nhân tướng, Chúng sinh tướng, Thọ giả tướng.

4 tướng này, nếu quý vị nhìn thấu, thì không còn chấp trước nữa. Vô ngã tướng, là không còn chấp trước thân này là ta. Thật sự coi cái thân này giống như bộ quần áo vậy. Đây là chân tướng sự thật. Chấp trước thân này là ta, thì sai lầm rồi, quý vị sẽ không thoát khỏi luân hồi lục đạo. Quý vị nên biết tu đức hạnh gì, làm việc tốt nào, hành thiện tích đức, quả báo đều ở cõi Trời, Người, không thoát khỏi lục đạo.

Nguyên nhân vì sao? Vì chấp thân này là ta. Quý vị nhất định phải biết rằng, thân này không phải là ta. Nó là một bộ phận sở hữu của ta, nên nó không phải là ta. Vì sao vậy? Vì thân có sinh diệt. Thọ mạng của con người có nhiều lắm khoảng 200 tuổi. 200 tuổi cũng vẫn phải chết. Trường thọ như trong cổ điển của Trung Quốc có ghi, thọ mạng dài nhất là Bành Tổ sống hơn 800 tuổi. Đó là ở Trung Quốc. Ở nước ngoài nghe nói cũng có một vị trường thọ, sống hơn 900 tuổi, nhưng mà cuối cùng thân xác này cũng phải hủy diệt. Thân xác không vĩnh hằng, nhưng tính linh thì vĩnh hằng.

Tính linh là gì vậy? Nó chính là chủng tính chúng ta đang nói ở đây. Chủng tính là danh từ trong Phật giáo. Trong Duy thức gọi là thần thức. Thần thức chỉ cho A Lại Da thức. Đúng vậy. Vì sao nói A Lại Da là ta? Bởi vì A Lại Da có tập khí của ta. Tập chủng tính tuy đã đoạn tận, nhưng tập khí của nó vẫn tồn tại, vẫn còn tập khí.

Nếu tập khí không còn nữa, thì gọi là chủng tính. Tập khí không còn nữa, nên không gọi là Tập chủng tính, mà là chủng tính. Hoặc giả không thể có chủng, khi có chủng là chủng ẩn. Ẩn hiện không hai, nó không khởi hiện hành, nó không khởi tác dụng. Vì vậy, ngày xưa, Chương Gia Đại sư dạy chúng ta, “nhìn thấu, buông bỏ”. Điều này thuộc về nhìn thấu. Học tập Không quán thường nên suy nghĩ như vầy.

Lục căn của chúng ta tiếp xúc với cảnh giới bên ngoài. Cảnh giới này là ý niệm đang khởi tác dụng. Ý niệm cực kỳ vi tế, giống như Bồ tát Di Lặc nói: Một khảy móng tay, có ba trăm hai mươi triệu niệm, niệm niệm thành hình. Hình là gì? Hình là vật chất, biến hiện ra vật chất. “Hình giai hữu thức”, trong mỗi vật chất đều có Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Vật chất này, ngày nay khoa học gọi là nguyên tử, hoặc gọi nó là ánh sáng. Nó vô thường, sát na sinh diệt. Trong Phật pháp nói, sinh diệt đồng thời, sinh diệt không hai, chính là nói về cái này. Cái này chính là chủng tính.

Thường quán xét như vậy, hết thảy hiện tượng vật chất đều do nó biến hiện ra. Nó tích lũy lại thành một huyễn tướng này. Vì sao hiện tượng này, khác nhau một trời một vực như vậy? Ngày nay chúng ta nói có động vật, có thực vật, có khoáng chất, có hư không, chính là tần số ba động (sóng) không tương đồng.

Tần suất chậm, sẽ biến thành khoáng chất, sơn hà đại địa. Tần suất nhanh hơn một chút, thì biến thành thực vật hoa cỏ, cây cối. Nhanh hơn chút nữa, thì biến thành động vật. Nhanh hơn chút nữa, thì biến thành ánh sáng, biến thành điện. Tần suất chấn động không đồng nhau, tần suất này khác nhau một trời một vực, là hiện tượng như vậy. Có thể đạt được hay không? Bất khả đắc.

Trong kinh Bát Nhã nói rất rõ ràng, “hết thảy pháp”, tính từ thân thể của chúng ta. Thân thể của chúng ta có thể đạt được hay không? Không thể được, “bất khả đắc”. Hết thảy hiện tượng vật chất, hiện tượng tinh thần đều bất khả đắc. Nếu quý vị cho là quý vị có khả đắc, thì đó chỉ là một huyễn giác. Đó không phải là chân. Quý vị xem, nói “đắc”, đây là khái niệm trừu tượng. Trong Bách pháp của Đại thừa, nó được liệt vào đứng đầu trong 24 Bất Tương Ưng Hành Pháp, tự mình cho là đạt được, kỳ thật đó là giả.

Cùng tâm bất tương ưng, nghĩa là cùng tinh thần không tương ưng; cùng sắc bất tương ưng nghĩa là cùng vật chất bất tương ưng, cùng Tâm Sở Hữu Pháp cũng bất tương ưng. Nhưng quý vị không thể nói là nó không có. Gọi là Bất Tương Ưng Hành Pháp, dùng ngôn ngữ ngày nay thì gọi là khái niệm trừu tượng, không có thật thể.

Chúng ta chấp trước cái này, nên biến ra hiện tượng luân hồi, quý vị đã bị nó ràng buộc, không ra khỏi phạm vi này. Ngày nào đó, giác ngộ một chút, sai rồi, đó chỉ là huyễn giác. Quý vị buông bỏ nó, thì không thấy lục đạo nữa. Vì vậy, thân tướng là giả. Đối lập với thân tướng, mới xuất hiện tướng ngã, nhân. Đối lập với người là Chúng sinh tướng. Đối lập với chúng sinh lại sinh ra một quan niệm thời gian, Thọ giả tướng. Thọ giả tướng là thời gian.

Hết thảy đều thuộc về khái niệm trừu tượng, quý vị phải nhìn thấu. Sau khi nhìn thấu rồi, thì buông bỏ chấp trước, không còn chấp trước nữa. Lúc này, quý vị lập tức được hoàn nguyên; cảnh giới của quý vị xuất hiện, tâm thanh tịnh hiện tiền. Tâm thanh tịnh là Chính Giác. Chúng ta học Phật, cầu mong điều gì? 3 thứ chúng ta đều có sẵn, bị mê rồi, bây giờ tìm trở lại, tìm lại Chính Giác, Chính Đẳng Chính Giác, Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác. Đầu tiên, tìm lại Chính giác. Tìm lại được Chính giác rồi, cách suy nghĩ, cách nhìn của quý vị đối với hết thảy pháp là chính xác, chắc chắn không sai lầm, giống như cách nhìn của Phật, Bồ tát vậy.

Thứ hai, tiến lên một bước nữa, có thể buông bỏ được phân biệt. Phân biệt là Trần Sa phiền não. Buông bỏ phân biệt, chính là “Tính chủng tính”. Tính chủng tính là Thập Hạnh Vị, chẳng trụ ở Không. Buông bỏ Không, có thể giáo hóa chúng sinh, phân biệt hết thảy pháp tính. Năng lực này không phải cầu từ bên ngoài, mà là trong tự tính của quý vị vốn đầy đủ. Năng lực này hiện tiền. Năng lực này hiện tiền, thì quý vị có thể giáo hóa chúng sinh.

Phàm mọi việc nhất định phải có thứ tự trước sau, quý vị không có cách nào vượt bậc được. Tập chủng tính là phá phiền não Kiến Tư hoặc, là phá chấp trước. Quý vị không chấp trước, thì quý vị mới có năng lực giáo hóa những chúng sinh chấp trước. Quý vị cao hơn họ một bậc, quý vị mới có thể giáo hóa họ. Quý vị bằng với họ, thì quý vị không thể giáo hóa họ được.

Những điều quý vị dạy họ, quý vị cho là đúng, thật ra không phải vậy. Từ đó cho thấy, chúng ta muốn dạy người, thì trước tiên phải dạy mình, mới có năng lực dạy người khác. Mình còn không dạy được mình, thì làm sao có năng lực dạy người khác? Thứ tự trong Tứ hoằng thệ nguyện, đương nhiên thứ nhất phải phát tâm, phải phát đại tâm. Đại tâm chính là đại Bồ đề tâm, tâm độ chúng sinh.

Muốn độ chúng sinh, nhất định phải thành Phật. Không thành Phật được, thì làm sao có thể độ chúng sinh? Muốn thành Phật, thì đầu tiên phải đoạn phiền não. “Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”. Thành tựu đức hạnh của mình, hồi quy về tự tính, là đoạn phiền não. Sau khi đoạn phiền não, mới có thể học pháp môn. “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học”. Được pháp môn rồi, gọi là khai ngộ. Sau khi ngộ, thì đức tướng, trí tuệ trong tự tính vốn sẵn có đều hiện tiền.

Nếu như không kiến tính, thì quý vị học đến kiếp nào đây? Học không hết, học hoài, học mãi. Kiến tính rồi, thì hoàn toàn minh bạch, khi đó gọi là thành Phật đạo. Bồ tát Sơ Trụ là thành Phật đạo. Tuy thành Phật đạo, nhưng vẫn còn tập khí vô thỉ vô minh trong mười pháp giới. Đoạn hết tập khí, ngay Thật Báo Trang Nghiêm Độ cũng không có, thật là “phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”. Không nói rằng trừ Thật Báo Trang Nghiêm Độ ra, không nói như thế. Thật Báo Độ cũng là hư vọng, cuối cùng duy nhất thật sự xuất hiện là Thường Tịch Quang. Thường Tịch Quang là bản thể của tự tính, như thế mới đạt đến cứu cánh viên mãn.

Vì vậy, Bồ tát Thập Hạnh Vị, có thể giáo hóa chúng sinh. Biệt Giáo bắt buộc phải tuân thủ theo lời dạy của thầy. Thầy là đức Phật. Nếu không y theo lời dạy của đức Phật, mà làm theo ý của mình, thì sẽ có lệch lạc, có sai lầm, phải chịu trách nhiệm về nhân quả.

Người xưa từng nói, sai một chữ chuyển ngữ, phải đọa làm thân dã can 500 đời. Công án này của Bách Trượng Đại sư, đã cho chúng ta sự cảnh giác rất lớn. Từ đó, chúng ta có sự cảm nhận sâu sắc rằng, việc tu tập quan trọng nhất là buông bỏ. Nhất định phải nhìn thấu.

Buông bỏ 5 loại Kiến hoặc, quý vị mới có thể chứng được Bồ tát Sơ Tín trong Thập Tín vị. Công phu đoạn chứng của vị này, tương đương với Tu Đà Hoàn. Quý vị nên biết rằng: Nhị Tín vị là Nhị quả hướng. Tam Tín vị là Nhị quả Tư Đà Hàm. Tứ Tín vị là Tam quả hướng. Ngũ Tín vị là Tam quả A Na Hàm. Lục Tín vị là Tứ quả hướng, Thất Tín vị là Tứ quả A La Hán. Quý vị cần thấy rõ.

Bát Tín vị là Bích Chi Phật. Cửu Tín vị là Bồ tát. Thập Tín vị là Phật, Phật trong mười pháp giới. Thấy rất rõ ràng trong kinh Hoa Nghiêm, phá vô thỉ vô minh, có nghĩa là không khởi tâm, không động niệm. Thập Tín vị tiến lên nữa là Sơ Trụ. Sơ Trụ của Viên Giáo bằng với Sơ Địa của Biệt Giáo. Minh tâm kiến tính, kiến tính thành Phật. Đây là sự thật.

Thập Tín vị chưa kiến tính, tiến thêm một bước nữa là kiến tính. Nói cách khác, người đến ranh giới của kiến tính, còn kém một chút thôi, công phu cao lên một tí nữa là kiến tính. Sau khi kiến tính mới có thể phổ độ chúng sinh. Thông thường mà nói, A La Hán có tư cách ở trong lục đạo độ chúng sinh. Khi vị này độ chúng sinh, chính là Tính chủng tính. Vị này không trụ ở Không, cho nên là Đại thừa. A La Hán Tiểu thừa không độ chúng sinh. Không độ chúng sinh mà trụ ở Không. Sự khác biệt là ở chỗ này. Không đó là gì? Là Thiên Chân Niết bàn, là chỗ A La Hán chứng được. Vị này chứng được không trụ, không trụ sinh tử, không trụ Niết bàn. Đó chính là Đại thừa, hồi tiểu hướng đại.

Thứ ba gọi là Đạo chủng tính. Đạo chủng tính là Thập Hồi Hướng Vị. Tu trung đạo diệu quán, nghĩa là không trụ nhị biên. Không trụ nhị biên, vẫn còn có trung đạo, lại biến thành nhị biên, một bên là không-hữu, một bên là trung đạo. Vì thế, phía sau đức Phật thêm vào một câu: “Nhị biên bất trụ, trung đạo bất tồn”, quý vị mới thật sự trụ ở trung đạo.

Ở trong trung đạo, ngay cả ý niệm về trung đạo cũng không có, ý niệm nhị biên cũng không có, thế mới gọi là trung đạo. Quý vị còn có Không, có Hữu, còn có trung đạo, thì xáo trộn rồi. Tâm của quý vị làm sao thanh tịnh được? Trên thực tế, Tính chủng tính trụ ở Thanh tịnh vị, Đạo chủng tính trụ ở Bình đẳng vị. Đề kinh của kinh Vô Lượng Thọ là Bình đẳng, đến Thánh chủng tính là Giác ngộ, là kiến tính. Đó là sự tu tập của chúng ta, chẳng riêng gì Tịnh Tông, mà bất luận tu pháp môn nào, khám xét công phu của quý vị là ở chỗ này.

Chúng ta học Phật, rốt cuộc tu được thế nào? Nhìn vào đâu? Tâm thanh tịnh. Tâm của chúng ta thật sự có thanh tịnh hơn lúc trước hay không? Tâm thanh tịnh không nhiễm ô, trong thuận cảnh không bị cảnh giới nhiễm ô. Vậy nghĩa là sao? Nghĩa là không tham luyến.

Ở trong thuận cảnh, không hề có tơ hào tâm niệm tham luyến. Ở trong nghịch cảnh, chẳng hề có tơ hào tâm niệm sân hận. Tâm của quý vị giống như nước trong đầm, vĩnh viễn duy trì gió yên sóng lặng, không có nhiễm ô. Phải biết cảnh giới bên ngoài. Thuận cảnh, nghịch cảnh, ác duyên, thuận duyên đều là cảnh giới bên ngoài.

Thuận cảnh, nghịch cảnh đến trắc nghiệm tâm của quý vị có thanh tịnh hay không? Thiện duyên, ác duyên để xem tâm của quý vị có bình đẳng hay không? Vì thế, chúng ta tu tập. Tu ở đâu đây? Không thể tách rời hoàn cảnh. Tách rời hoàn cảnh, thì làm sao quý vị có thể tu tập thành công được. Trong hoàn cảnh nhân sự, tu bình đẳng. Trong hoàn cảnh vật chất, tu thanh tịnh. Đó gọi là thật sự công phu.

Hàng ngày, đọc tụng kinh giáo, nghiên cứu kinh giáo, đó là gì? Là nhắc nhở quý vị. Sợ cảnh giới hiện tiền, quý vị lại hồ đồ, lại mê hoặc. Đó là sai. Thời khóa hàng ngày, đều là để trắc nghiệm bản thân, xem có bị cảnh giới làm dao động hay không? Trong hoàn cảnh vật chất, có khởi tâm động niệm chăng? Khởi tâm động niệm là nhiễm ô. Trong hoàn cảnh nhân sự, khởi tâm động niệm, thì đánh mất bình đẳng, giống như nước trong đầm dậy sóng. Thế là sai. Kinh giáo là môn học trên lớp, trong cuộc sống, trong công việc, trong việc tiếp nhân xử thế. Đó là tu tập, đó là hạ thủ công phu, đó là luyện công. Luyện công ở đó, chỉ học trên lớp mà không luyện công thì không được, không thể thành tựu. Luyện công mà không có tiêu chuẩn của tiết học cũng không được. Vì thế, Hạnh, Giải, 2 cửa không thể thiếu một. Tiết học là Giải. Cảnh giới thuận, nghịch là Hạnh. Có Giải, có Hạnh, quý vị mới có chứng. Vì vậy, Thập Hồi Hướng Vị, tu trung đạo diệu quán, do đó thông đạt hết thảy Phật pháp. Quý vị xem, thông đạt; thông là không có chướng ngại, đạt là được rõ ràng; thật sự rõ ràng, cái gọi là một kinh thông hết thảy kinh. Chứng được một pháp môn, thì hết thảy các pháp môn khác đều chứng được.

Trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Một tức hết thảy, hết thảy tức một”, cho nên người biết học, hạ thủ công phu ở một pháp môn, nhất định phải học thông; không thông, không buông tay. Quý vị vẫn chưa thông, quý vị đổi pháp môn khác, điều này thì phiền phức đấy. Đó là điều cấm kỵ lớn nhất. Đổi tới đổi lui, suốt cả cuộc đời cũng không thông được. Nếu như một pháp môn, quý vị giữ chặt, nhất định không thay đổi thì sẽ có thành tựu. Trong truyện ký của người xưa, chúng tôi có xem qua. Trong Ngũ Đăng Hội Nguyên, tình trạng bình thường, thì 3 đến 5 năm là được Tam Muội. Được Tam Muội nghĩa là sao? Là được Thanh tịnh, Bình đẳng. Tâm vị này Thanh tịnh, Bình đẳng, thông thường chúng ta nói vị này được định. Được định không phải ngồi thiền. Điều này nhất định các vị phải biết. Không phải ngồi xếp bằng quay mặt vào vách, mà ở trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày.

Khi 6 căn tiếp xúc với cảnh giới 6 trần, vị này luôn giữ được tâm bình khí hòa. Đó là định. Vị này không bị cảnh giới bên ngoài làm dao động. Ở trong cảnh giới tự mình có thể làm chủ được, khoảng 3 đến 5 năm là có thể đạt được. Đạt được định, ở những pháp môn khác, thì không thoát khỏi lục đạo luân hồi, nhưng ở pháp môn Niệm Phật, thì chắc chắn quý vị được vãng sinh.

Ở trong Phàm Thánh Đồng Cư Độ, chắc chắn là tam bối, nghĩa là Thượng tam phẩm, rất có thể quý vị tiến lên một bậc nữa, là sinh về Phương Tiện Hữu Dư Độ. Ở trong định một thời gian, thêm mấy năm công phu nữa, thì sẽ khai ngộ. Khai ngộ, nghĩa là minh tâm kiến tính. Vãng sinh về thế giới Tây Phương Cực Lạc là Thượng bối vãng sinh. Đó là sự thật. Vì vậy, Thiện Đạo Đại sư vào đời Đường, cùng chư vị tôn sư, các Ngài nói cũng rất có lý, chẳng phải là vô lý đâu. Đó là nói về Đạo chủng tính, nghĩa là phải không ngừng hướng thượng.

Thứ tư là Thánh chủng tính. Thánh chủng tính là nói về Thập Địa. Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng đều là Hiền Vị, gọi là Tam Hiền. Tam Hiền có 30 cấp bậc. Tu đầy đủ Thập Hồi Hướng chứng được Sơ Địa. Sơ Địa trở lên gọi là Thánh.

Trong Đại thừa giáo, chúng ta thường niệm: “Bồ tát Ma ha tát”. Bồ tát là Bồ tát Tam Hiền, Ma ha tát là Thập Địa Vị. Thập Địa gọi là Ma ha tát, là Đại Bồ tát, là Thánh nhân, Thánh hiền. Thập Địa là Thánh. Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng là Hiền. Tam Hiền Thập Thánh. Bồ tát Ma ha tát gọi là Thánh chủng tính. Tất cả đều do tu mà có.

Tiến lên một bước nữa, thứ 5 là Đẳng Giác Vị, gọi là Đẳng giác tính. Địa vị này là Bồ tát, còn kém một chút nữa là đến Diệu Giác. Nhưng vị này đã siêu việt, vượt lên Tam Hiền Thập Thánh, địa vị này là Hậu Bổ Phật (Phật được bổ nhiệm sau), là Đẳng Giác Vị.

Thứ sáu là đến cực điểm, gọi là Diệu giác tính, diệu cực giác mãn. Trong đây, tính tuy thông 6 vị, nhưng chủng chỉ ở tại nhân, cho nên 4 vị trước gọi là chủng. Đẳng Giác tuy vẫn là nhân vị, nhưng nó thù thắng hơn những điều trước nhiều, nên nó không gọi là Nhân, mà gọi là Giác.

Trước Thập Địa đều là nhân vị. Đẳng Giác không gọi là nhân, mà gọi là Giác. Đây là Giác Vị, không gọi là chủng nữa. Chủng là chủng tử. Chủng tử chỉ đến Thập Địa Vị. Đẳng Giác không gọi là chủng, như vậy có nghĩa là gì? Là bất sinh bất diệt. Nếu dùng giáo nghĩa Hoa Nghiêm, chúng ta có thể lãnh hội được, tập khí vô thỉ vô minh của Thập Địa Bồ tát, vẫn còn tác dụng rất vi tế, đến Đẳng Giác tập khí vô minh vẫn chưa đoạn sạch, nó không khởi tác dụng. Thật sự không khởi tác dụng, cho nên không gọi nó là chủng.

Khởi tác dụng vẫn còn là chủng. Chủng tử khởi tác dụng, còn nó không khởi tác dụng, nhưng mà nó vẫn còn, cho nên gọi nó là Giác, chứ không gọi là Chủng. Đến vị Diệu Giác, giác đã viên mãn, gọi là Diệu Giác. Diệu chính là quả Phật cứu cánh viên mãn.

Ở đây, nói về Đại thừa chủng tính, cũng có nghĩa là Thập Trụ của Biệt Giáo trở lên. Thập Trụ của Biệt Giáo trở lên cho đến Thập Địa Thánh Chủng Tính, đều được gọi là Đại thừa Chủng tính. Đại thừa Chủng tính trở lên đến Sơ Địa Bồ tát, họ vãng sinh thế nào? Thượng bối hạ phẩm là những người này. Trung bối thượng sinh là Tam quả (A Na Hàm). Vì sao không là Tứ quả (A La Hán)? Tứ quả là Thượng bối hạ sinh. Đây là những điều người xưa dạy, đều là Thánh nhân, đoạn tận phiền não Kiến Tư hoặc.

Tiếp, Niệm Công nói: “Nhược như thị giải, tắc cửu phẩm chi trung, thượng phẩm duy thị Bồ tát Thánh chúng sở sinh, trung thượng phẩm thị tiểu Thánh sở sinh, tòng thượng thượng chí trung thượng tứ phẩm phàm phu tuyệt phần” (Nếu hiểu như thế, thì thượng phẩm trong chín phẩm chỉ là Bồ tát Thánh chúng vãng sinh, còn trung, hạ phẩm là tiểu Thánh vãng sinh. Từ thượng thượng phẩm cho đến trung thượng phẩm, 4 cấp bậc này, tuyệt không có phần của phàm phu). Hình như phàm phu không có phần, vậy chẳng phải có nghĩa là như thế sao? Điều này, Thiện Đạo Đại sư, và các vị Tôn sư có giảng nói như vậy.

Chúng ta học đoạn kế tiếp, đoạn Ất: “Bản vi phàm phu, kiêm vi Thánh nhân” (Vốn là phàm phu, kiêm là Thánh nhân). Những vị này chủ trương khác với những người trước. Thiện Đạo Đại sư viết cuốn Quán Kinh Tứ Thiếp Sớ, chú giải Quán Kinh; Thiếp là quyển. Chú giải của Ngài tổng cộng có 4 quyển, cho nên gọi là Tứ Thiếp Sớ, chính là sớ của Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh. Truyền thuyết, Thiện Đạo Đại sư là Phật Di Đà tái lai. Tôi đến tham vấn ở Nhật Bản trước 6 lần, tiếp xúc với các vị Đại đức của Tịnh Tông ở Nhật Bản rất nhiều. Tôi thỉnh giáo với họ, nghe nói Thiện Đạo Đại sư là hóa thân của Phật Di Đà. Người Nhật có suy nghĩ gì? Họ trả lời rằng, người Nhật tin như vậy.

Một số chùa chiền ở Nhật Bản, có thờ hình tượng Thiện Đạo Đại sư, tượng gỗ, tượng xi măng, tranh vẽ, v.v… Nơi nào cũng có thể nhìn thấy. Đối với Tổ sư họ rất sùng bái. Sự sùng bái Tổ sư còn hơn là sùng bái Bồ tát, cho nên họ có Tổ Đình, Tổ Sư Điện. Rất nhiều chùa Tông Tịnh Độ, sử dụng tên của Thiện Đạo Đại sư: chùa Thiện Đạo. Chỉ cần quý vị nhìn thấy chùa Thiện Đạo, là biết ngay đây là Tông Tịnh Độ, rất sùng kính đối với Thiện Đạo Đại sư.

Trong chú giải Quán Kinh của Thiện Đạo Đại sư, “phá tiền thuyết viết” (phá bỏ những thuyết trước đây). Tiền thuyết nghĩa là trước đời Thiện Đạo Đại sư, tức là người xưa cho Quán Kinh giảng thuyết chuyên vì Bồ tát, nhưng Thiện Đạo Đại sư, thì không cho như vậy.

“Như Lai thuyết thử thập lục quán pháp, đản vi thường một chúng sinh, bất can đại tiểu Thánh dã” (Như Lai thuyết 16 pháp quán, chỉ vì chúng sinh bình thường, không can hệ gì tiểu, đại Thánh cả). Câu này nói hay quá. Chúng ta nghe rồi cảm thấy yên tâm. Thượng thượng phẩm vãng sinh, chúng ta cũng có phần, chẳng riêng gì Bồ tát. 16 loại quán pháp này, nghĩa là Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh, nói về 16 cách quán của pháp môn Tịnh Độ.

“Đản vi”, chuyên vì. “Thường một chúng sinh”, là chúng sinh trong lục đạo. “Bất can đại tiểu Thánh”, không can hệ với tiểu, đại Thánh. Chuyên nói vì lục đạo chúng sinh. Câu này của Thiện Đạo Đại sư nói. Thiện Đạo Đại sư là hóa thân của Phật Di Đà, thì câu này do chính kim khẩu của Phật Di Đà nói với chúng ta vậy.

“Ý vị Phật thuyết Quán Kinh trung chi Cửu Phẩm vãng sinh, chỉ vi trầm nịch chi chúng sinh” (Ý là Phật nói chín phẩm vãng sinh trong Quán Kinh là chỉ vì các chúng sinh chìm đắm). Thường một nghĩa là thường thường đọa vào 3 ác đạo, giống như bơi lội trong biển cả vậy. Thời gian ngước đầu lên rất ngắn. Hít thở chút không khí trong lành, lại hụp đầu xuống, thời gian đó rất dài. Chỉ cần ở trong lục đạo, thì thật sự giống tình trạng này. Vì vậy, lục đạo chúng sinh đến cõi Nhân, Thiên thời gian rất ngắn, đến tam đồ thì thời gian dài, thường trú ở chỗ khổ.

“Nhi phi chuyên vi Bồ tát dữ A La Hán dã” (Mà không phải chuyên vì Bồ tát và A La Hán vậy).

Thế giới Tây Phương Cực Lạc không phải chuyên vì Bồ tát, cũng chẳng phải chuyên vì bậc A La Hán, mà là chuyên vì phàm phu sinh tử trong lục đạo. Điều này, nên nhận thức rõ ràng.

“Hựuvân”, Lại Thiện Đạo Đại sư nói. “HựukhánthửQuán Kinh, định thiện cập tam bối thượng hạ văn nghĩa, tổng thị Phật khứ thế hậu, ngũ trược phàm phu, đản dĩ ngộ duyên hữu dị, chí linh cửu phẩm sai biệt (Lại xem văn nghĩa Quán Kinh này, nói định thiện và ba hạng thượng hạ. Tóm lại là đời sau cách Phật, phàm phu ngũ trược, gặp các duyên có khác, dẫn đến có chín phẩm sai biệt). Câu này nói quá hay. Thiện Đạo Đại sư dạy chúng ta, ý nghĩa rất đơn giản. Thế giới Tây Phương Cực Lạc, 3 hạng, 9 phẩm. Hình thành thế nào đây? Ở chỗ ngộ duyên bất đồng. Nếu như duyên vô cùng thù thắng, thì người này rất có khả năng thượng bối vãng sinh. Nếu gặp phải duyên không thù thắng, thì có thể là hạ bối vãng sinh. Điều này rất rõ ràng.

Ví dụ như xã hội ngày xưa, phương tiện giao thông không tiện, thông tin không có, các vị pháp sư giảng kinh đều giảng ở trong chùa. Hạng người nào duyên có phần thù thắng hơn? Dân trí thức. Giáo viên dạy học ở những trường học tư nhân. Thời gian nghỉ lễ, nghỉ tết, có thì giờ nhiều hơn một chút, họ sẽ đến chùa nghe các vị pháp sư giảng kinh. Có nhân duyên thù thắng như thế, họ có thể nghe được kinh điển Tịnh Độ, có thể tiếp nhận người xuất gia dạy họ tu tập. Duyên của họ thù thắng.

Họ hiểu lý, họ biết phương pháp, nên nghiêm chỉnh tu tập, rõ ràng phẩm vị của họ đã nâng cao. Thông thường, người không biết chữ rất nhiều. Họ không thể đến chùa để nghe kinh, nghe người khác nói: Phật A Di Đà hay, thế giới Tây Phương Cực Lạc là đẹp, chỉ cần quý vị chuyên niệm là có thể được vãng sinh. Người cũng làm, họ liền chuyên niệm, lão thật niệm. Niệm đến 3 năm, 5 năm, công phu đến nhà, thì họ cũng được vãng sinh, phẩm vị thì không cao, đại khái đều sinh về Phàm Thánh Đồng Cư Độ. Đó chính là gặp duyên bất đồng. Nói đến gặp duyên của chúng ta, quả thật là quá thù thắng, không gì sánh bằng. Vì sao vậy? Vì chúng ta có thể gặp được cuốn Hội Tập của Hạ Liên lão cư sĩ. Đó là thù thắng không gì sánh bằng.

Ngày xưa, người ta cũng học kinh Vô Lượng Thọ, đó là học 5 loại bản dịch. Điều này, chúng ta có thể thấy trong Đại Tạng Kinh.

Ngày nay, chúng ta đem 9 cuốn kinh Vô Lượng Thọ, in thành một cuốn, mọi người xem là hiểu được. Cuốn sách này quá hay, 5 bản dịch kết tập thành một.

Sự giảng giải của đức Thế Tôn, thật sự là một câu không sót. Cuốn sách này rất khó được, lại có duyên gặp được cuốn chú giải của Hoàng Niệm Tổ lão cư sĩ. Đó đều là nhân duyên hy hữu không gì bằng.

Duyên gặp của chúng ta quá thù thắng! Đồng thời, chúng ta còn gặp được Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm và rất nhiều kinh luận khác, khiến chúng ta đối với Đại thừa, đối với những cuốn sách nói về sự vãng sinh của Tịnh Tông có được một nhận thức sâu đậm.

Chúng ta hiểu được phương pháp, y theo phương pháp tu tập, dù đời này không được Thượng bối thượng sinh, nhưng Thượng bối hạ sinh thì có phần. Thượng bối hạ sinh là được rồi. Vì sao vậy? Vì cũng sinh về Thật Báo Trang Nghiêm Độ ở thế giới Tây Phương Cực Lạc.

Thượng bối sinh Thật Báo Độ. Trung bối sinh Phương Tiện Độ. Hạ bối sinh Đồng Cư Độ. Chúng ta thật sự nắm chắc. Bây giờ, chính là lúc có chấp nhận buông bỏ hay không? Không còn chấp trước, phải ghi nhớ việc không còn chấp trước. Buông bỏ thân kiến, buông bỏ biên kiến. Biên kiến chính là đối lập. Học tùy duyên, học hòa hợp, không đối lập với người. Đó là gì? Là hết thảy phiền não đều hàng phục được hết, buông bỏ thành kiến. Những kiến giải sai lầm cho mình là đúng, đều buông bỏ hết.

Buông bỏ thì thế nào? Thì tâm thanh tịnh của quý vị sẽ hiện tiền. Tâm thanh tịnh sinh Chính giác, chúng ta sinh về thế giới Tây Phương Cực Lạc, cấp bậc sẽ cao hơn là sinh về Phương Tiện Hữu Dư Độ.

Nếu như tiếp tục buông bỏ được, buông bỏ tâm chấp trước, thì quý vị sẽ được tâm bình đẳng. Tâm bình đẳng này là trung thượng phẩm. Tiến lên một bước nữa, nghĩa là không khởi tâm, không động niệm, thì sinh về Thật Báo Trang Nghiêm Độ.

Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta học điều gì? Học chịu thiệt thòi. Điều này quan trong hơn tất cả. Không chấp nhận thiệt thòi, không chấp nhận bị gạt. Đó là gì? Đó là chấp trước. Nếu như tâm niệm này không thể buông bỏ, thì chúng ta chỉ vãng sinh về Đồng Cư Độ, không thể sinh về Phương Tiện Độ và Thật Báo Độ.

Khi quý vị muốn tiến lên, thì phải buông bỏ vạn duyên. Người ta gạt tôi, hãm hại tôi, việc tốt đấy, tôi rất biết ơn, tuyệt đối không để ý, không chất chứa trong lòng. Tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng của mình từ đó mà thành tựu. Tuyệt đối không bị cảnh giới bên ngoài làm dao động, thì tâm được bình đẳng. Tuyệt đối không bị cảnh giới bên ngoài khởi lên thất tình ngũ dục.

Thất tình ngũ dục là nhiễm ô, hỷ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục. Cảnh giới bên ngoài hiện tiền, quý vị khởi lên tâm này, thì sẽ bị nhiễm ô. Trong cảnh giới có tâm cao thấp, thì không phải là tâm bình đẳng. Không có tâm cao thấp, thì hết thảy bình đẳng, bởi hết thảy chúng sinh vốn là Phật.

Nhìn bất cứ chúng sinh nào, cũng giống như nhìn Phật vậy, ấy là tu tâm bình đẳng. Luyện trong cuộc sống hàng ngày như thế mới có thành tựu. Thời thời khắc khắc ở bất cứ nơi nào đều luyện công phu. Bất luận là tâm niệm cao hay thấp, tâm niệm thất tình ngũ dục vừa mới khởi niệm lên liền A Di Đà Phật.

Cổ nhân có dạy, “Đừng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Niệm là gì? Niệm là tập khí vô thỉ vô minh, làm sao nó không khởi? Nó mà không khởi, thì chẳng phải quý vị đã thành Phật rồi sao? Quý vị là phàm phu, chắc chắn sẽ khởi niệm. Khởi niệm đừng sợ. Vừa khởi niệm lập tức giác ngộ ngay, niệm thứ hai bèn biến thành A Di Đà Phật. Dùng một câu A Di Đà Phật để thay thế, đó là chân thật niệm Phật, là biết niệm Phật.

Người không biết niệm, thì không được. Người không biết niệm, thì vẫn còn phân biệt, vẫn còn chấp trước. Đó chính là tâm xen tạp mà chúng ta thường nói. Hoài nghi, xen tạp, là không biết niệm.

Người biết niệm, thì không hoài nghi, không xen tạp. Dùng một câu danh hiệu Phật để thay thế hết thảy mọi tâm niệm của mình. Không khởi niệm. Khởi niệm chính là A Di Đà. Đây gọi là tương ưng. Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật. Niệm niệm tương ưng niệm niệm Phật. Đó là thật sự công phu. Vì vậy, đoạn kinh văn này, Quán Kinh nói về định thiện. Nói về thiện có định thiện và tán thiện. Định thiện là thời khóa cố định. Tán thiện là tu trong cuộc sống hàng ngày.

Tóm lại là đời sau cách Phật, phàm phu ngũ trược, gặp các duyên có khác, dẫn đến 9 phẩm có sai biệt.

Hoặc giả thượng phẩm tam nhân thị ngộ đại phàm phu” (Hoặc là 3 hạng thượng phẩm được gặp đại phàm phu). Đời này, chúng ta không thật sự gặp được Bồ tát, Thánh nhân, không gặp được Phật, Bồ tát, mà gặp đại phàm phu. Chúng ta có thể gọi đại phàm phu là đại thiện nhân, thiện tri thức. Họ có nhân duyên thù thắng, gặp được thầy hay, đồng tham bạn hữu tốt, chính tri chính kiến, tu Giới, tu Định, tu Tuệ, có thể làm thầy của chúng ta.

Trung phẩm tam nhân” (3 hạng trung phẩm). Trung phẩm nghĩa là thượng, trung, hạ: Trung thượng, trung trung, trung hạ. “Ngộ tiểu phàm phu” (Gặp tiểu phàm phu). Ở thế giới của chúng ta đây, cũng là thiện tri thức, là bạn hữu tốt, cũng có thể giúp cho chúng ta thành tựu, sinh về Phương Tiện Hữu Dư Độ.

Hạ phẩm tam nhân thị ngộ ác phàm phu” (3 hạng hạ phẩm, thì gặp ác phàm phu). Ác phàm phu nghĩa là gì? Là tập khí phiền não nặng. Người này cũng học Phật. Bản thân họ có được vãng sinh hay không, không quan trọng. Họ dạy chúng ta tu tập pháp môn này, chúng ta nghe lời, và thật sự tu tập, chắc chắn được vãng sinh, sinh về Phàm Thánh Đồng Cư Độ.

Từ đó cho thấy, có thể một đời này thành tựu được hay không, mấu chốt của nó ở chỗ nào? Mấu chốt ở bản thân mình, chứ không phải ở người khác. Trí Giả Đại sư nói rất hay: “Năng thuyết bất năng hành, quốc chi sư dã” (Có thể nói, nhưng không thể làm là thầy của nước). Có thể nói, nhưng không thể làm là ác phàm phu. Người này có thể làm thầy của chúng ta. Chúng ta chỉ cần nghe lời. Họ có thể dạy quý vị, nhưng bản thân họ không làm được.

Nếu quý vị thật sự có tâm cung kính, thì không để ý đến hành trì bất thiện của họ. Không để ý đến những điều này, thì sẽ thấy những điều họ nói là đúng, những điều họ nói là thiện. Chúng ta y giáo phụng hành, thì chúng ta có thể thành tựu “quốc chi sư dã”.

Năng thuyết hựu năng hành, quốc chi bảo dã” (Có thể nói, lại có thể làm là báu vật của nước). Có thể nói, có thể làm. Đó là gì vậy? Là đại phàm phu, là quốc bảo. Vì thế, ngạn ngữ có câu: “Thanh xuất ư lam, nhi thắng ư lam” (Màu lam sinh từ màu xanh mà hơn màu xanh). Câu này có nghĩa là thầy giáo biết dạy, nhưng bản thân thầy thì không làm được. Dạy học sinh, học sinh làm được, học sinh thành tựu vượt hơn thầy. Thầy giáo thì không có gì thành tựu, còn học sinh thì thành tựu được. Cái lý của nó ở chỗ này. Vì sao học sinh thành tựu được? Vì tôn sư trọng đạo.

Học sinh đã làm được điều này. Thầy giáo thiện hay bất thiện đều không để trong lòng, chỉ cần những điều thầy dạy tương ưng với kinh luận là được rồi. Thầy giáo không giảng sai kinh luận, chỉ dạy chúng ta phương hướng và đường đi chính xác. Bản thân làm được, hay không làm được, hoặc là bản thân tin tưởng hay không tin tưởng, đó là chuyện khác, không liên quan gì đến chúng ta.

Chúng ta phải tu học như thế mới thật sự được thành tựu? Học đến cuối cùng, bản thân công phu đắc lực. Sự học hỏi không thể gián đoạn, sống đến già, học đến già, học hoài không hết. Học đến một giai đoạn nào đó, thì giống như Thiện Tài đồng tử tham học 53 vị thầy. Nghĩa là sao? Là ai ai cũng là thầy của tôi.

Người lành là thầy của tôi. Những biểu hiện của vị này, những thiện pháp mà vị này nói ra, chúng ta nghe rồi; nhìn lại bản thân, xem mình có hay không, nếu như không có, phải nghiêm chỉnh học tập làm theo. Nếu như có thì tốt! Phải tiếp tục duy trì, đừng để đánh mất, thì quý vị sẽ học được. Người ác làm những đều ác, chúng ta đã thấy rồi. Thầy của tôi đấy. Phản diện dạy tôi, tôi thấy rồi, nghe rồi. Suy nghĩ xem mình có như thế hay không? Có, thì sửa đổi, nếu không có, thì phải nhắc nhở bản thân không được phạm phải lỗi lầm này. Người thiện chính diện dạy ta; người bất thiện phản diện dạy ta; hết thảy đều là thầy của ta. Người này một đời thành Phật. Họ sẽ rất biết ơn những vị thầy giáo này.

Y chính trang nghiêm trong mười pháp giới, ai chẳng phải là thầy của mình? Hết thảy mọi người là thầy giáo. Nói cho quý vị biết, hết thảy động vật là thầy giáo; hoa cỏ, cây cối cũng là thầy giáo, sơn hà đại địa cũng là thầy giáo. Vì thế, Thiện Tài đồng tử, có thể trong một đời chứng được quả vị Diệu Giác.

Vị này đã học như thế nào? Vị này biết học, đã học như vậy đấy. Ngày nay, chúng ta gặp được thầy hay, lại hoài nghi thầy, bản thân quý vị không được lợi ích gì. Gặp phải thầy không hay, lại chê bai thầy, nói rằng: Người này không phải người tốt, chúng ta không nên thân cận, xa rời thầy.

Ở chỗ người tốt không học được điều gì, ở chỗ người xấu cũng không học được điều gì, thì suốt cuộc đời này của quý vị sẽ có được thành tựu gì đây? Nhất định phải học như tâm Thiện Tài đồng tử, thì chúng ta sẽ thành công. Tâm của Thiện Tài đồng tử như thế nào? Là xem hết thảy chúng sinh đều là Phật. Người đó làm thiện là người đó đang biểu diễn cho chúng ta thấy. Người đó làm việc xấu, thì cũng là đang biểu diễn cho chúng ta thấy. Hết thảy là đều dạy ta.

Vị này làm thiện và ác, là làm để cho chúng ta thấy, chứ không phải họ thật sự ác hay thật sự thiện. Vị đó là thầy, ta là học sinh. Thầy dạy ta, thầy ấy đóng vai diễn xuất sắc, khiến ta rất cảm động. Trong đó khiến ta lãnh ngộ được, khiến ta học được. Sự việc là như vậy.

Vì thế, mười nguyện của Ngài Phổ Hiền, nguyện thứ nhất là “Lễ kính chư Phật”. Không có sự khác biệt trong đây, chư Phật là Phật quá khứ, Phật hiện tại. Chúng ta thấy kinh Phật Danh trong Đại Tạng Kinh, trong đó có hơn một vạn danh hiệu Phật, có Phật quá khứ, Phật vị lai, Phật hiện tại.

Trong kinh Phật Danh, ý nghĩa quan trọng nhất là gì? Là vị lai. Phật vị lai ở đâu? Hết thảy chúng sinh đều là Phật vị lai, cho nên chư Phật ba đời quan trọng nhất là nói đến vị lai. Hết thảy chúng sinh đều có Phật tính. Đã có Phật tính, thì nhất định sẽ thành Phật.

Ngày nay, chúng ta có tội với hết thảy chúng sinh, nghĩa là có tội với chư Phật vị lai, thì làm sao quý vị có thể thành tựu được? Quý vị chắc chắn không thể thành tựu được.

Trong kinh Hoa Nghiêm, nói càng đầy đủ hơn: “Tình dữ vô tình đồng viên chủng trí”. Chẳng những hữu tình, là nói đến động vật, là Phật vị lai, mà hoa cỏ, cây cối cũng là Phật vị lai, sơn hà đại địa cũng là Phật vị lai. Vì sao vậy? Vì Đồng viên chủng trí. Viên là viên mãn. Chủng trí chính là hết thảy chủng trí mà chư Phật Như Lai chứng được quả vị cứu cánh. Quý vị xem, tình và vô tình đều viên mãn hết thảy chủng trí. Đó chẳng phải ngay cả sơn hà đại địa cũng có thể thành Phật hay sao? Trong Hoàn Nguyên Quán, dạy chúng ta 3 loại châu biến. Đưa ra ví dụ gì đây? Đưa ra một vi trần. Một vi trần là gì? Ngày nay, nói là hạt nguyên tử cơ bản (Quark), mắt thường không thấy được, là hiện tượng vật chất nhỏ nhất. Một vi trần này châu biến pháp giới. Quý vị nên biết rằng, những vi trần rất nhỏ như thế là gì? Là ba động (sóng).

Hiện tượng vật chất làm sao mà có? Do ba động hình thành. Vì vậy, bất luận là hiện tượng vật chất hay hiện tượng tinh thần đều do ba động hình thành. Sự biến động của nó châu biến pháp giới. Phải mất bao lâu mới châu biến pháp giới? Lập tức! Ngay đó, bèn châu biến pháp giới. Ở trong cảnh giới đó không có thời gian và không gian, cho nên tốc độ của nó rất nhanh.

Ngày nay, chúng ta nói ánh sáng, điện từ không bì được, còn thua xa. Tia sáng từ mặt trời đến địa cầu, cự ly gần cũng phải mất 8 phút, còn ba động của một vi trần thì lập tức châu biến pháp giới.

Chư Phật Như Lai, A La Hán mười phương, đều có thể nhận được tin này. Các vị ấy tỉ mỉ, còn chúng ta thì thô tháo, cho nên không thể nhận được. Chẳng phải không có cảm đâu. Thật sự có cảm đấy, nhưng chúng ta không thể ứng được, vì chúng ta còn chướng ngại.

Các vị Thánh nhân, A La Hán, Bích Chi Phật, Bồ tát, các vị ấy đã phục hồi được tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, cho nên họ có thể nhận được. Đó là châu biến thứ nhất.

Thứ hai là “Xuất sinh vô tận”. Xuất sinh vô tận là nói về biến hóa. Biến hóa vô lượng vô biên, không có số lượng, không có biên giới. Sự biến hóa này nương vào đâu mà khởi tác dụng? Nói cho các vị biết, nó nương vào ý niệm, vào thức. Thức, trong Phật pháp nói, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, đều gọi là Thức. Thọ, Tưởng, Hành, Thức, sát na sát na không giống nhau. Hiện tượng tinh thần và hiện tượng vật chất, nương theo ý niệm vi tế mà sản sinh biến hóa. Điều này nói rất nhiều trong những lời dự ngôn, là nguyên lý hóa giải tai nạn.

Tôi thấy trong cuốn sách này, nêu lên một ví dụ, nói về ung bướu: Có một phụ nữ bị bệnh bướu rất nghiêm trọng, 3 bác sĩ và 1 y tá, đồng thời khi đó còn có 1 vị là nhân viên quay phim nhiếp ảnh, tổng cộng có 5 người ở trong phòng bệnh.

Thật sự gọi là buông bỏ vạn duyên, cùng một ý niệm, cùng một suy nghĩ, nhìn cục bướu này, bởi vì dùng máy chụp hình có thể dùng X-quang chiếu ra, mọi người đều có thể nhìn thấy. Nhìn thấy cục bướu, cho nó một ý niệm: “Mất rồi, cục bướu mất rồi, cục bướu mất rồi”. Miệng thì nói như vậy, còn tâm thì nghĩ cục bướu mất rồi. 2 phút 40 giây, thật sự không thấy cục bướu đâu nữa, người này hoàn toàn phục hồi lại bình thường. Phương pháp trị liệu này, khoa học làm sao giải thích được; không thể giải thích được. Dùng ý niệm hóa giải nó, điều này trong Phật pháp có căn cứ, có thể giải thích được: “Hết thảy pháp theo tâm tưởng sinh”.

Quý vị bị bệnh là cũng do tưởng mà ra. Cục bướu càng ngày càng to cũng là tưởng ra. Nếu quý vị không nghĩ tới nó, thì nó sẽ không có. Quý vị thường nghĩ tới nó, thì sẽ xuất hiện. Lúc nào cũng nghĩ đến nó, thì càng ngày nó càng lớn.

Bây giờ, kêu quý vị đổi ý niệm, “nó biến mất rồi, không thấy nó nữa”, không mổ xẻ, cũng không dùng thuốc, mà nó biến mất. Có bài báo cáo như vậy, khoa học làm sao giải thích đây? Ngày nay, khoa học thật sự cũng có Lượng Tử Lực Học, và trong Hoàn Nguyên Quán, nói về hiện tượng tinh thần và hiện tượng vật chất vi tế ba động sinh sản. Có giảng đến điều này, đó chính là căn cứ của lý luận, cho nên nó phá giải một số dự ngôn.

Dự ngôn có phải là thật không? Là thật đó. Vì sao vậy? Vì hiện nay, ý thức tập thể của con người sống trên địa cầu này, họ đang nghĩ gì? Bây giờ, họ đang nghĩ về tai nạn. Tai nạn từ đâu mà có? Là từ ý niệm không chân chính mà sinh ra. Khởi tâm động niệm, tự tư, tự lợi, danh văn, lợi dưỡng, tham, sân, si, mạn, tạo nên tai nạn.

Ngày nay, tai nạn hiện tiền. Mọi người vẫn còn nghĩ đến tai nạn, nên tai nạn càng ngày càng rộng lớn, càng ngày càng nghiêm trọng. Hết thảy đều do tâm tưởng sinh. Hiểu được nguyên lý này, nếu như hết thảy mọi người sống trên địa cầu này hồi tâm chuyển ý. Chúng ta không nghĩ đến tham, sân, si. Chúng ta chỉ nghĩ đến Giới, Định, Tuệ. Chúng ta không nghĩ đến tai nạn. Chúng ta chỉ nghĩ đến hòa mục tương xứ, nghĩ đến hỗ tương tôn trọng, hỗ tương kính ái, hỗ tương quan tâm, hỗ tương hợp tác, thì tai nạn lập tức sẽ không còn nữa, giống như cục bướu không còn nữa vậy. Vì thế, không có một pháp nào cố định, hết thảy đều là pháp sống, hết thảy đều là hiện tượng ba động. Từ đó, các nhà dự ngôn nhìn thấy những tai nạn ấy, họ không dám nói là tai nạn sẽ thay đổi. Vì sao vậy? Vì ý niệm sát na sát na thay đổi.

Ý niệm thay đổi, thì nó lập tức thay đổi, không hề nói sai một tí nào cả. Niệm trước ác, thì biến ra tai nạn. Niệm sau thiện, thì tai nạn không còn nữa. Chính là cái lý này. Sức mạnh của tập thể, ý thức lớn hơn hết, cho nên rất nhiều tôn giáo Ngày xưa, hiểu được điều này. Phật giáo đối với điều này hiểu càng sâu sắc và lý giải thấu triệt hơn. Mọi người chúng ta cùng một lúc đều cầu nguyện, hoặc là trong đạo Phật nói cùng một lúc niệm danh hiệu Phật, danh hiệu Bồ tát.

Mọi người trên toàn thế giới chỉnh thời giờ lại cùng một lúc, niệm Phật A Di Đà, niệm Bồ tát Quán Thế Âm. Niệm nửa giờ đồng hồ, trong tâm nghĩ rằng, xin Bồ tát giúp chúng con, thì tai nạn sẽ hóa giải. Thật sự không còn nữa. Điều này không giả đâu nhé.

Chúng ta phải làm thế nào đây? Ngày nay, có thể dùng TV. TV phát đi khắp thế giới. Giờ giấc trên thế giới không giống nhau, nhưng chúng ta chỉnh đồng hồ lại, chỉnh lại cùng một giờ như nhau. Ở Úc bây giờ là 8 giờ, bên Đài Loan là 6 giờ, đó chính là chúng ta sử dụng cùng một thời gian. Mỗi một nơi trên thế giới, chúng ta kết hợp thời gian thành cùng một giờ, mọi người cùng nhau niệm, thì sức mạnh này thật sự không thể nghĩ bàn!

Thật sự có thể thay đổi, tai nạn hóa giải rồi. Thay đổi rồi, thiện tâm của quý vị vĩnh viễn duy trì, vậy thì thế giới của chúng ta sẽ biến thành thế giới Cực Lạc, sẽ biến thành thế giới Hoa Tạng. Chuyện này không khó đâu.

Vì sao thế giới Cực Lạc lại đẹp như vậy? Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giới thiệu cho chúng ta, cư dân của thế giới Cực Lạc, “đều là các bậc thượng thiện hội tụ một chỗ”, cho nên nó mới đẹp như thế đó. Người ở thế giới đó không có niệm ác, không có phân biệt, không có chấp trước. Cư dân trong Thật Báo Độ, họ không có khởi tâm động niệm, thì làm sao không tốt được!

Đức Phật giới thiệu với chúng ta bậc thượng thiện, đó là gì vậy? Là cư dân trong Phàm Thánh Đồng Cư Độ. Họ không có một niệm ác. Lý là ở chỗ này.

Chúng ta hiểu rõ rồi, chúng ta có thể nghe theo lời chỉ dạy của chư Phật, Bồ tát; nghe theo lời dạy của người tín ngưỡng tôn giáo; nghe theo lời dạy của các vị Thần Thánh trong tôn giáo mình. Niệm niệm đều là niệm thiện, không có một niệm ác nào. Thế giới của chúng ta đây chính là thiên đường, là vườn trời, chính là thế giới Cực Lạc. Chẳng phải không làm được đâu. Giác ngộ, thì sẽ làm được. Sự chuyển biến chỉ ở trong một niệm, không có trước sau. Đạo lý này rất thâm sâu, ở trong kinh giáo Đại thừa đều có đề cập đến.

Hiền Thủ Quốc sư rút trong kinh Hoa Nghiêm, quy nạp thành 6 điều, đơn giản và dễ hiểu, viết ra chân tướng sự thật của vũ trụ vạn vật. Trước đây, chúng ta có học qua 2 lần. Đối với sự tu học của chúng ta, có lợi ích lớn, giúp cho chúng ta nhìn thấu buông bỏ; giúp cho chúng ta điều tiết thân tâm mạnh khỏe, xa lìa tật bệnh, già nua. Điều này giúp chúng ta rất nhiều. Nói rộng ra là giúp cho chúng ta hóa giải sự động loạn của xã hội, sự tai nạn của tự nhiên.

Từ điểm này, chúng ta có thể tượng tượng ra, Ngày xưa, Tiến sĩ Thang Ân Tỷ nói rất có lý, đó là sự thật không dối gạt: “Giải quyết vấn đề xã hội của thế kỷ hai mươi mốt này, phải dùng học thuyết Khổng Mạnh và giáo lý Đại thừa”. Có thể nói được như vậy, thật không đơn giản. Đối với chân tướng sự thật, người này đã thông đạt hiểu rõ. Chúng ta nghiêm chỉnh học tập, thì có thể hóa giải rất nhiều vấn đề hiện nay.

Tiếp: “Phục vân, kim dĩ nhất nhất xuất văn hiển chứng, dục sử kim thời thiện ác phàm phu đồng triêm cửu phẩm, sinh tín vô nghi, thừa Phật nguyện lực, tất đắc sinh dã” (Lại nói: Nay lấy mỗi mỗi văn kinh nói ra chứng minh rõ ràng, muốn khiến phàm phu thiện ác thời nay đồng được hưởng 9 phẩm vãng sinh, sinh tin tưởng không nghi, nương nhờ nguyện lực của Phật thảy đều được vãng sinh). Những điều này đều là của Thiện Đạo Đại sư nói, y cứ vào kinh điển để chứng minh cho chúng ta thấy, mục đích là hy vọng vào những phàm phu thiện, ác hiện nay. Bất luận là quý vị làm thiện hay quý vị làm ác cũng không sao, đều có thể đồng hưởng cửu phẩm. Nói cách khác, chỉ cần quý vị có Tín-Nguyện-Hành là có thể được vãng sinh, đều được bản nguyện oai thần của đức Phật A Di Đà gia trì.

Sinh tin tưởng không nghi”, nghĩa là điều quan trọng nhất, quý vị phải sinh khởi tín tâm. Dùng kinh điển để chứng mình, không gì khác ngoài việc giúp người khác sinh khởi tín tâm, đoạn nghi sinh tín. Điều này vô cùng quan trọng. “Nương nhờ nguyện lực của Phật thảy đều được vãng sinh”. Chúng ta nương vào sự gia trì nơi 48 nguyện của Phật A Di Đà. Bản nguyện oai thần gia trì, bất luận là làm thiện hay làm ác, đều có thể được vãng sinh. Chúng ta cần phải có niềm tin. Do đó, chúng ta nhất định phải sửa đổi những thái độ sai lầm; không được chê bai người ác, không được xem thường người làm ác.

Người thật sự tu tập, người có công phu đắc lực, nhìn thấy người làm ác, sinh tâm thương xót, chứ không ghét bỏ, không bài xích, không chỉ trích những sai lầm đó, phải sinh tâm đồng tình, sinh tâm thương xót.

Vì sao người đó làm ác? Vì họ vô tri, không ai dạy họ. Nhất định phải khẳng định rằng tính người vốn là thiện. “Nhân chi sơ, tính bản thiện” (Người mới sinh, tính vốn thiện). Đó là thiên tính của họ, là tự tính của họ.

Sở dĩ, họ biến thành bất thiện, đó là tập tính, không có người dạy, nên học điều hư. Xã hội ngày nay, không thật sự có một người tốt dạy họ, thì họ chẳng thể không học điều hư. Bên trong có tập khí phiền não, trong Bách Pháp cho chúng ta thấy: Thiện tâm sở của lục đạo phàm phu chỉ có 11 cái, Ác tâm sở có 26 cái. Cũng có nghĩa là bản thân tập khí ác của quý vị có nhiều hơn tập khí thiện, hơn nữa sức mạnh của tập khí ác rất mạnh, sức mạnh của tập khí thiện rất yếu ớt.

Những cám dỗ bên ngoài, ngày nay cám dỗ thiện hầu như là không có, cám dỗ ác thì nhiều vô số kể. Ở xã hội này, có thể không làm ác được sao? Đó là việc không thể. Ở trong xã hội này mà không làm ác, thì chỉ là những vị thị hiện thôi. Chẳng phải những vị thị hiện, thì không thể làm được đâu.

Vì thế, chúng ta nghĩ đến đức Phật dạy trong kinh Vô Lượng Thọ: Từ bi đến cực điểm. Điều này là những người làm ác rất cần quý vị đem đến. Chúng ta dùng tâm trạng gì để nhìn họ? Người trước vô tri, không ai dạy họ, cha mẹ họ không dạy họ, ông bà họ không dạy họ, ít nhất là 3 đời không có ai dạy họ. Người trước bất thiện, vô tri, không biết đạo đức, không nên trách họ.

Cả một xã hội ngày nay, ra nông nỗi này, chúng ta nghe đức Phật dạy như thế, thì tâm bình khí hòa. Suy nghĩ kỹ xem, không thể trách bất cứ người nào, cũng không thể trách chính phủ, không thể trách chế độ. Vì sao vậy? Vì nguyên nhân đã có từ lâu, truy ra ít nhất cũng có trăm năm rồi. Trong trăm năm này, đã bỏ qua sự dạy dỗ của Thánh hiền, mà sự cám dỗ lớn nhất chính là khoa học. Chúng ta tin tưởng khoa học, mà bỏ qua những điều mà tiền nhân dạy; bỏ qua những điều Thánh hiền dạy, chỉ chú trọng vào khoa học mà thôi.

Ngày nay gặp phải những vấn đề này, phải làm sao đây? Trên thế gian này, có người thông minh, chứ chẳng phải không có người thông minh. Người thông minh quay đầu lại tìm tiền nhân. Chính xác đấy, đi tìm cổ thánh tiên hiền, đi tìm tôn giáo. Nhưng mà quý vị nên biết rằng, tôn giáo cổ thánh tiên hiền, ở đây đã bị người ta làm loạn, cho nên mọi người nghi hoặc, không thể sinh khởi lòng tin thanh tịnh. Nguyên nhân vì sao vậy? Vì tập khí tạo thành những chướng ngại. Đối với điều này, chúng ta có đủ lòng tin. Lòng tin do học mà có. Chúng ta tin thầy giáo, bởi đây là nhân rất tốt. Tin tưởng lời dạy bảo của thầy, nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu. Một phương hướng, một mục tiêu.

Tôi học Phật 59 năm, bám lấy không bỏ. Không có ngày nào chẳng đọc kinh. Không có ngày nào chẳng giảng kinh. Ở giảng đường thì giảng kinh, không ở giảng đường, mà trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, gặp một người thì nói cho một người nghe, gặp hai người thì nói cho hai người nghe, chẳng có ngày nào ở không.

Một ngày giảng bao nhiêu giờ? Ít nhất là 8 giờ đồng hồ, cho đến nay cũng như vậy. Người đến gặp tôi rất đông. Tôi có không nói chuyện với ai chăng? Mở miệng là giảng kinh, đem những đạo lý của Phật, Bồ tát và Thánh hiền, những điều tôi đã học, tôi nói những điều tâm đắc mình học được, cho mọi người cùng nghe. Bây giờ, người ta nói là chia sẻ với đại chúng, một ngày không dưới 8 giờ đồng hồ. Những chuyện ô nhiễm của thế gian cố gắng tránh. Sự nhiễm ô trầm trọng nhất là báo, tạp chí… Đối với những thứ này, ít nhất có 45 năm tôi không tiếp xúc rồi, không xem rồi.

Tôi không có quyền kêu quý vị đừng chiếu những tiết mục đó. Tôi không có quyền lực đó, nhưng mà tôi có quyền không xem quý vị chiếu. Vì sao vậy? Không bị nhiễm ô, những báo, tạp chí tôi không xem. Tôi xem kinh Phật. Tôi xem sách Thánh hiền. Tôi đã tập thành thói quen này.

Ở trong đó có chất dinh dưỡng phong phú nhất, nuôi dưỡng pháp thân tuệ mạng, đồng thời cũng nuôi dưỡng thân mạng của con người.

Tâm quý vị thanh tịnh, sinh tâm hoan hỷ, thì mỗi tế bào, mỗi phân tử, mỗi nguyên tử, điện tử trên cơ thể quý vị, đều là mạnh khỏe, đều bình thường, thì làm sao quý vị không vui được! Do đó, tiếp xúc với sự dạy dỗ của Thánh hiền, chúng ta sẽ hiểu được mình phải sống thế nào, làm thế nào để hưởng thụ cuộc đời hạnh phúc mỹ mãn.

“Hựuư,HànhQuyểnKệtiền,khaithịĐạithừaLượng Thọ Kinh chi cơ viết, kỳ cơ giả, tắc nhất thiết thiện ác đại tiểu phàm ngu dã” (Lại ở phần trước Kệ của Hành Quyển, có khai thị về căn cơ của kinh Đại thừa Vô Lượng Thọ: Nói về căn cơ thì phủ đều hết thảy đại tiểu phàm ngu thiện ác vậy). Hết thảy những lời này đều do Thiện Đạo Đại sư nói. Thiện Đạo Đại sư viết ở Hành Quyển. Cuốn sách này, tôi chưa được xem. Hoàng Niệm Lão ở phía sau cuốn sách này, trong phần mục lục dẫn dụng kinh luận, có ghi cuốn Hành Quyển Kệ.

Thiện Đạo Đại sư khai thị căn cơ của Đại thừa Vô Lượng Thọ Kinh. Căn cơ như thế nào, thì có thể khế hợp với bộ kinh này? Có thể nương theo bộ kinh này tu tập để đạt được quả vị thù thắng? Ngài nói căn cơ này tức là hết thảy thiện ác, Đại thừa, Tiểu thừa, phàm phu, ngu nhân, hết thảy đều bao gồm trong đấy. Trong kinh Pháp Diệt Tận, đức Phật Thích Ca Mâu Ni có dạy, sau 9.000 năm nữa, hết thảy kinh điển trong Phật pháp đều không còn, đều bị biến mất khỏi thế gian này. Cuối cùng còn lại một bộ kinh, chính là bộ kinh này, chính là kinh Vô Lượng Thọ này.

Vì sao vậy? Vì nó có thể khế hợp hết thảy căn cơ thiện và ác; tu thiện, tu ác đều có thể được vãng sinh. Đại thừa, Tiểu thừa, phàm phu, ngu nhân, chẳng có người nào là không khế cơ, đúng là “Ba hạng chín phẩm tóm lại ở gặp duyên bất đồng”. Câu này nói hay quá.

Nhân duyên ngày nay, chúng ta gặp được, thù thắng không gì sánh bằng. Thật sự có thể nắm bắt cơ duyên này, không để nó đi qua, thì chắc chắn sinh về Thật Báo Trang Nghiêm Độ. Cổ nhân dạy, chúng ta phát tâm là cầu sinh về thượng thượng phẩm, không được thượng thượng phẩm, thì vẫn còn được trung thượng phẩm. Câu này nói rất có lý. Mục tiêu nhất định phải ở thượng thượng phẩm. Tuyệt đối không được nói rằng, tôi làm việc xấu cũng không sao, chỉ cần được hạ hạ phẩm vãng sinh là đủ rồi. Điều này, không nắm chắc đâu, cần phải nên làm những việc nắm chắc, đoạn hết thảy ác, tu hết thảy thiện.

Đới nghiệp vãng sinh là mang theo nghiệp cũ, chứ không phải là mang theo nghiệp mới đâu. Đó là những điều người xưa giảng rất rõ ràng minh bạch. Trong đó có đạo lý rất thâm sâu, nhưng mà đạo lý này chúng ta có thể hiểu được, chúng ta có thể tiếp thu được. Như lý như pháp mà tu tập, thì không có điều gì chẳng thành tựu.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 49)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 48)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 47)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 210
    • Số lượt truy cập : 8560545