TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH GIẢI DIỄN NGHĨA - TẬP 38

Chủ giảng: LÃO PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
*****
Trưởng ban biên dịch:
TK. Thích Đồng Bổn
QUYỂN 4
(Tập 31-40)
TẬP 38
Giảng ngày 13 tháng 5 năm 2010 Tại Tịnh Tông Học Viện Úc Châu
Biên dịch: Tử Hà - Biên tập: Bình Minh
Chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, xin xem tiếp Đại thừa Kinh Vô Lượng Thọ Giải, dòng thứ 6, trang 40.
“Đại sư chi thuyết, thượng khế Thánh tâm, hạ hợp quần cơ, thật đại hữu công ư Tịnh độ, cố trung nhật chi sư đa tông thử thuyết” (Thuyết của Đại sư, trên khế hợp Thánh tâm, dưới phù hợp mọi căn cơ, thật có công lớn đối với pháp môn Tịnh Độ. Vì thế, các sư ở Trung Quốc, Nhật Bản phần nhiều xem trọng thuyết này). Ở đây, Hoàng Niệm Tổ lão cư sĩ cho chúng ta biết, những điều nói phía trên đều là của Thiện Đạo Đại sư nói. Những lời này nói rất hay. Dưới đây là những lời tán thán: “Trên khế hợp Thánh tâm”. Thánh ở đây chỉ cho chư Phật Như Lai. Sự thật, chư Phật Như Lai nói bộ kinh này, giảng bộ kinh này, hoằng dương bộ kinh này. Ý nghĩa thật sự của nó chính là phổ độ chúng sinh.
“Dưới phù hợp mọi căn cơ”. Hợp có nghĩa là châu biến, trong đó bao gồm hết thảy chúng sinh, thật sự là “Tam căn phổ bị, lợi độn toàn thu” (3 căn đều nhận, lợi, độn đều thâu). Đối với pháp môn Tịnh Độ mà nói, không có ai chẳng khế hợp, không có ai chẳng phải là đương cơ. Then chốt ở chỗ, chúng sinh có chịu tin hay không, có chịu phát nguyện hay không mà thôi.
Vì vậy, Thiện Đạo Đại sư, và cách giảng của chư vị Tổ sư ngày xưa, cách nhìn không giống nhau. Cách nhìn của Thiện Đạo Đại sư, thật sự có công rất lớn đối với pháp môn Tịnh Độ. “Do vậy, các sư ở Trung Quốc, Nhật Bản phần nhiều xem trọng thuyết này”.
Vào đời Tùy, Đường, Nhật Bản và Hàn Quốc, đã phái rất nhiều các vị xuất gia đến Trung Quốc tham học, cho nên Tịnh Độ Tông lưu hành ở Nhật Bản và Hàn Quốc, đa số đều tuân theo lời chỉ dạy của Thiện Đạo Đại sư.
Dưới đây, đưa ra một ví dụ: “Như Nhật Hợp Tán vân” (Như Nhật Hợp Tán nói). Cuốn Hợp Tán này, do Pháp sư Quán Triệt trước tác. “Đệ thập bát nguyện, thập phương chúng sinh, tam bối chúng sinh, giai thị cụ phược phàm phu, thị kỳ cơ dã” (Nguyện thứ 18, chúng sinh mười phương, ba hạng chúng sinh vãng sinh, đều là căn cơ chúng sinh phàm phu ràng buộc). Các vị cao tăng ở Nhật Bản, trong nguyện thứ 18, không nói đến Bồ tát, cũng không nói đến A La Hán, mà nói thập phương chúng sinh, tam bối chúng sinh. Tam bối này đều là phàm phu, là lục đạo phàm phu. Khi lâm mạng chung, họ cần một niệm, mười niệm đều được vãng sinh.
“Hậu phục vân, như Nguyên Hiểu vân” (Sau lại nói: Như Nguyên Hiểu nói). Nguyên Hiểu là chuyên Tông Tịnh Độ của Hàn Quốc. “Tứ thập bát đại nguyện, sơ tiên vi phàm phu, hậu kiêm vi tam thừa Thánh nhân” (Trong 48 đại nguyện, đầu tiên trước vì phàm phu, sau kiêm vì Thánh nhân Tam thừa). Nói cách khác, đức Phật Di Đà nói kinh Vô Lượng Thọ. Mười phương Như Lai tiếp nhận pháp môn này, phổ biến hoằng dương pháp môn này. Mục đích là phổ độ kẻ phàm phu nghiệp chướng sâu dày.
Tâm của đức Phật giống như tâm của cha mẹ vậy. Cha mẹ đối với con cái, chư Phật đối với chúng sinh, tâm trạng như nhau. Không gì ngoài việc mong cho chúng sinh sớm có ngày thành Phật. Có thể thành Phật được chăng? Đáp án là khẳng định thành, không có một chút hoài nghi nào hết. Vì sao vậy? Vì hết thảy chúng sinh vốn là Phật.
Trong kinh giáo Đại thừa, chư Phật, Bồ tát thường dạy chúng ta rằng: “Hết thảy pháp theo tâm tưởng sinh”. Quý vị vốn là Phật. Chỉ cần ngay bây giờ, trong tâm quý vị nghĩ đến Phật, thì làm sao không thành Phật được? Vì vậy, phàm phu thành Phật ngay trong một niệm. Thật sự nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật; niệm niệm tương ưng niệm niệm Phật. Vấn đề ở chỗ quý vị có chịu niệm hay không thôi. Quý vị niệm cái gì, thì nó biến ra cái đó. Mười pháp giới Y chính trang nghiêm, sát na sát na đều đang biến hóa, nó không phải là định pháp. Trong Đại thừa giáo, đức Thế Tôn thường nói với chúng ta, đức Phật nói không có định pháp. Vì sao vậy? Vì cả vũ trụ này, sát na sát na đều đang biến hóa. Vốn là không có định pháp, cho nên đức Phật giáo hóa chúng sinh cũng không có định pháp.
Biến hóa từ đâu mà có? Người nào có thể chủ trì được sự biến hóa này? Trong kinh giáo Đại thừa, đức Phật thường dạy: “Hết thảy pháp duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Đó chẳng phải là đã nói rất rõ ràng hay sao? Vì sao lại có nhiều biến hóa như vậy? Tâm năng hiện năng sinh, những pháp sở hiện sở sinh này, nó sẽ sản sinh biến hóa. Đó là thức khởi tác dụng.
Thức là gì vậy? Thức là phân biệt, là chấp trước. Vì thế, quý vị nên suy nghĩ, không cần nghĩ đến người khác, mà nghĩ về chính mình. Sự phân biệt của chúng ta vô lượng vô biên. Chấp trước của chúng ta cũng là vô lượng vô biên.
Hết thảy pháp sở sinh, nó không phải là định pháp, nó sát na sinh diệt, cho nên sát na tùy theo tâm niệm của chúng sinh, nó khởi lên sát na biến hóa. Dù là chư Phật Như Lai, hay Pháp thân Bồ tát ứng hóa ở trong lục đạo, giống như kinh Lăng Nghiêm nói: “Tùy chúng sinh tâm, ứng sở tri lượng”. (Tùy tâm chúng sinh, tương ứng theo chỗ biết của chúng). Do đó, pháp của Phật nói cũng không có định pháp, tùy theo hết thảy chúng sinh mà biến hóa. Đức Phật gọi là: “Hằng thuận chúng sinh, tùy hỷ công đức”. Trong tùy thuận có bất biến. Tùy thuận là biến.
Sự phiền phức của phàm phu chúng ta, chính là tùy theo chúng sinh mà biến hóa. Tùy duyên tùy biến, đó là khổ. Sự sáng suốt của chư Phật, Bồ tát là tùy duyên bất biến. Đó là các Ngài sáng suốt, duyên nào cũng có thể tùy. Y chính trang nghiêm trong mười pháp giới đều có thể tùy.
Bất biến là gì? Các Ngài dùng chân tâm. Cái gì là chân tâm? Là Chân thành, Thanh tịnh, Bình đẳng, Chính giác, Từ bi. Những cái này bất biến, vĩnh hằng bất biến. Điều này chính là Đại Bồ đề tâm mà kinh giáo thường nói.
Trong Tứ thánh pháp giới dùng cái tâm này. Ở cõi Nhân, Thiên, ở tam đồ, ở địa ngục vẫn là dùng cái tâm này. Y chính trang nghiêm hàng ngày đều đang biến hóa, sát na biến hóa. Bồ đề tâm bất biến, phàm phu thì không được. Phàm phu tùy duyên tùy biến. Thế nào là tùy biến? Là tùy theo cảnh giới bên ngoài, khởi lên thất tình ngũ dục, tham, sân, si, mạn, thế nên biến đổi. Nên biết rằng, tùy duyên tùy biến là tạo nghiệp. Tùy duyên bất biến, thì không tạo nghiệp.
Trong kinh, đức Phật miễn cưỡng gọi nó là tịnh nghiệp. Kỳ thật, nếu như nói tạo tịnh nghiệp là đối với Tứ thánh pháp giới trong mười pháp giới mới gọi là tịnh nghiệp. Ở trong Thật Báo Độ, không có dấu vết, không có nhiễm tịnh. Đó mới là sự khởi dụng của tự tính. Không có gì chẳng gọi là tính. Đó là quả địa của Như Lai.
Chúng ta học Phật, thì phải học năng lực này. Năng lực này trong Hoàn Nguyên Quán, chính là câu đầu tiên: “Tùy duyên diệu dụng”. Diệu dụng, nghĩa là vĩnh hằng bất biến, không chấp tướng, chẳng những không chấp tướng mà thật sự dấu vết cũng không tìm thấy. Có thể nói là tự tính khởi dụng. Trong tự tính hai thứ Có-Không đều không có. Nó không phải là vật chất, nó cũng chẳng phải là tinh thần, cho nên chỉ có thể lãnh ngộ, chứ không thể dùng ngôn ngữ, không nói được. Ngôn ngữ đạo đoạn, diệu mà!
Khi khởi tác dụng, “oai nghi hữu tắc” (oai nghi có quy tắc), cũng có nghĩa là hoàn toàn tùy thuận chúng sinh. Ở trong tùy thuận khởi tác dụng, khởi lên tác dụng thích hợp nhất, tác dụng thù thắng nhất, tác dụng hoàn mỹ nhất, cũng không có định pháp. Chúng sinh tự tư, tự lợi, còn nó khởi tác dụng là đại công vô tư, tương phản với quý vị.
Tâm hành của chúng sinh niệm niệm chấp trước. Tham, sân, si, nó thị hiện khởi tác dụng cho quý vị. Niệm niệm đều tuân thủ Giới, Định, Tuệ, giúp cho chúng sinh giác ngộ, giúp cho chúng sinh quay đầu.
Quay về đâu? Quay về tự tính, quay về Tính đức. Đó chính là oai nghi hữu tắc. Người này có nguyên tắc. Điểm chính xác của nguyên tắc này, không có nhất định. Nhân con người, nhân sự việc, nhân thời, nhân địa, mà khởi biến hóa. Nó có một nguyên tắc bất biến, chính là tuyệt đối lợi ích chúng sinh. Chắc chắn là dẫn dắt chúng sinh “quay đầu là bờ”. Điều này là bất biến.
Có 84.000 pháp môn, Tịnh Độ Tông niệm Phật cũng là một pháp môn. Thái độ của chư Phật, Bồ tát miên viễn là nhu hòa chất trực, cho nên các Ngài ở trước chúng sinh, đều khiến chúng sinh sinh tâm hoan hỷ.
Người thiện thích Ngài, người ác cũng thích Ngài, không có ai ghét Ngài hết. Điều này quá giỏi giang. Trời, Người hoan hỷ Ngài. Ngạ quỷ, súc sinh, địa ngục cũng hoan hỷ Ngài. Làm người được như thế, thật quá viên mãn. Điều này chúng ta nên học, đó gọi là nhu hòa. Nhu là dịu dàng, hòa là hài hòa. Tuy dịu dàng hài hòa, nhưng Ngài làm việc không do cảm tình. Ngài chất trực, đầy đủ trí tuệ, không hề có một chút hồ đồ.
Câu cuối cùng rất chi là tuyệt vời: “Thay khổ cho chúng sinh”. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế đã thị hiện chúng ta thấy, suốt cuộc đời Ngài thật sự đã buông bỏ hết, ba y một bát, ngày ăn một nữa, nghỉ dưới gốc cây, giảng kinh thuyết pháp, chẳng có ngày nào Ngài ở không. Đó là thay khổ cho chúng sinh. Suốt 49 năm cũng như một ngày. Chúng ta xem lịch sử cả ngàn vạn năm, tìm đâu ra được một người thầy như thế? Tìm không ra người thứ hai.
Đức Thế Tôn hy vọng rằng, đời đời kiếp kiếp, học trò của Ngài học theo gương Ngài, nên Ngài đã làm gương. Học theo Ngài mới thật sự là một người đệ tử chân chính. Ngài là khuôn mẫu của đệ tử Phật. Ngài đã làm được điều này. Vì thế, làm nhà giáo dục, thì đầu tiên phải giáo dục chính mình. Bản thân không làm được, thì làm sao đi dạy người khác? Đó là chân lý. Chúng ta phát tâm học Phật, nhất là phát tâm xuất gia, hoằng pháp, hộ pháp, quý vị không học theo Phật sao được? Học Phật ở đây, là học theo đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Đó gọi là chân thật học Phật.
Một đời đức Phật Thích Ca Mâu Ni, không vì danh văn, lợi dưỡng. Ngay cả tâm niệm danh văn, lợi dưỡng cũng không có, chính là giáo dục chúng sinh. Chủng loại chúng sinh không giống nhau, trình độ cao thấp không bằng nhau, họ ở thế gian này làm việc lại không tương đồng. Vấn đề nan giải là gì? Chỉ cần quý vị tìm đến thầy, thì thầy đều có thể giúp quý vị giải quyết vấn đề. Thật sự Ngài đã hiển lộ đại trí tuệ, đại học vấn. Chẳng những giải quyết những vấn đề khó khăn trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, mà mục đích cuối cùng, là muốn giúp cho hết thảy chúng sinh phá mê khai ngộ, hồi quy tự tính, thành tựu Phật quả viên mãn. Đó chính là mục tiêu cuối cùng mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện giảng dạy.
Trong kinh Phật có câu, câu này có thể dịch ra, không hề khó chút nào, nhưng mà lại không dịch: “A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ đề”. Đây là mục tiêu cuối cùng mà đạo Phật truy tìm. Câu này là tiếng Phạn, dịch thành Trung văn, thì có nghĩa là Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác.
Chẳng phải là không dịch được, nhưng vì sao không dịch? Đó gọi là tôn trọng không dịch. Học Phật là học cái gì? Chính là phục hồi Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác của chính mình. Mình vốn sẵn có, chẳng phải hướng ngoại tìm cầu. Vì sao bây giờ lại không có? Vì quý vị bị vọng tưởng, phân biệt, chấp trước che khuất. Buông bỏ chấp trước, không còn chấp trước nữa, thì Chính giác hiện tiền. Buông bỏ phân biệt, thì Chính đẳng Chính giác hiện tiền.
Đối với hết thảy pháp của thế gian và xuất thế gian, không khởi tâm động niệm, thì quý vị sẽ thành Phật, Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác hiện tiền. Hết thảy chúng sinh, người người ai cũng có, buông bỏ thì đạt được. Vì sao không chịu buông bỏ? Điều này đáng để chúng ta suy nghĩ, suy nghĩ rõ ràng. Phật pháp, Chương Gia Đại sư nói rất hay, “Tri nan hành dị” (Biết khó, làm dễ). Tri là biết chân tướng sự thật, những điều trong Phật pháp gọi là Tính, Tướng, Lý, Sự, Nhân, Quả, biết rõ ràng minh bạch, điều này thật sự không dễ. Hành quá dễ dàng, hành buông bỏ.
Buông bỏ là đúng. Vì sao không chịu buông bỏ? Vì những điều biết không rõ ràng, không thấu triệt, còn nghi hoặc, làm chướng ngại sự buông bỏ của quý vị. Nếu như không có chút gì nghi vấn, dạy quý vị buông bỏ là buông bỏ, thì lập tức quý vị sẽ thành tựu.
Chúng ta thấy trong kinh Phật có ghi chép lại, ở trong truyện ký thì lại càng nhiều hơn. Đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tính, thật sự chỉ ở trong một niệm. Một niệm buông bỏ rốt ráo, thì công phu sẽ thành tựu. Đối với thật tướng của các pháp, Ngài thật sự hiểu rõ ràng minh bạch, cho nên Ngài rất dễ dàng buông bỏ. Chúng ta muốn đi con đường gần, đi con đường tắt thì phải tìm hiểu, tu tập. Phân lượng của kinh Hoa Nghiêm quá lớn, thật sự không dễ thọ trì. Nhưng mà Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán của Quốc sư Hiền Thủ, đó chính là cốt lõi tu tập kinh Hoa Nghiêm. Bài luận văn này chữ không nhiều, nguyên lý nguyên tắc trong kinh Hoa Nghiêm, phương pháp tu hành chứng quả đều ở trong đó.
Ngày xưa, chúng tôi có học qua 2 lần, tu Hoa Nghiêm, đi đường tắt. Bộ luận này rất hay. Luận văn được chia làm 6 đoạn. 3 đoạn đầu nói về sự khởi nguồn của vũ trụ, sự khởi nguồn của vạn pháp, ta từ đâu mà có, đều nói rất rõ ràng. 3 đoạn sau là dạy chúng ta phương pháp quay đầu. Quý vị muốn hồi quy tự tính, muốn tìm lại bản lai diện mục của mình, trong Thiền Tông nói, “Bản lai diện mục trước khi cha mẹ chưa sinh”. Bản lai diện mục của quý vị là Phật. Quý vị tìm lại bản lai Phật của mình, bắt đầu tu Tứ Đức. Tứ Đức là cơ bản, là oai nghi phép tắc. Ngũ Chỉ là buông bỏ. Lục Quán là nhìn thấu. Tu được vậy, thì quý vị sẽ thành tựu.
Những điều này nói thì rất dễ, nhưng làm thì không dễ, rất là khó. Vì sao vậy? Vì tập khí của chúng ta rất sâu dày, mê muội lâu ngày. Tập khí sâu dày, rất muốn buông bỏ, nhưng mà lại buông không được. Nhưng mà chúng sinh ra vào thời đại này, học Phật thành Phật được tăng thượng duyên thù thắng không gì sánh bằng. Tăng thượng duyên ở đây là gì? Người ngoại quốc đóng bộ phim 2012, tôi cảm thấy đó là tăng thượng duyên thù thắng không gì sánh bằng, cho chúng ta thấy, quý vị muốn thành Phật, quý vị muốn thành tựu, quý vị còn bao nhiêu thời gian nữa? Vẫn còn 3 năm nữa. 3 năm có đủ hay không? Đủ rồi! Dùng phương pháp nào đây? Dùng phương pháp Chấp trì danh hiệu. Thời gian 3 năm, chắc chắn quý vị sẽ thành tựu. Nghĩa là cái duyên này cho quý vị biết, 3 năm quý vị có thể thành Phật. Không thành Phật được, thì 3 năm quý vị sẽ đi vào đường tam đồ.
Có 2 con đường, quý vị chọn đường nào đây? Chúng ta chọn con đường thành Phật. Bình thường, tôi dạy các vị 16 từ, là được rồi. Đó là chúng ta buông bỏ tự tư, tự lợi, danh văn, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần, tham, sân, si, mạn. Tâm thái như vậy, phát Bồ đề tâm, Nhất hướng chuyên niệm, thì chẳng có người nào không thành tựu. Làm chướng ngại sự thành tựu của quý vị không gì khác, chính là 16 từ tôi nói, đó là chướng ngại: Tự tư, tự lợi, danh văn, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần, tham, sân, si, mạn. Những thứ này làm chướng ngại, chỉ cần buông bỏ những thứ này, thì chướng ngại của quý vị sẽ không còn nữa. Quý vị sẽ thành tựu.
Chúng ta hiểu rõ rồi, thì chúng ta phải thật tu. Tu ngay bây giờ, tu ngay hôm nay, phải nghiêm chỉnh, không tham luyến, không mơ hồ nữa. Chỉ cần thật sự tu, chẳng những cứu được mình, mà còn cứu được gia đình mình nữa, cứu được xã hội, cứu được đất nước, và cứu được thế giới. Công đức này thù thắng quá, trang nghiêm thù thắng không gì bằng, vì sao lại không chịu tu?
Chỗ chúng ta nương vào chính là bộ kinh Vô Lượng Thọ này. Bộ kinh Vô Lượng Thọ này triển khai ra, chính là pháp môn vô lượng vô tận mà hết thảy chư Phật mười phương ba đời đã nói. Hết thảy tinh hoa đều gói gọn trong bộ kinh này nơi Đại Tạng Kinh. Cốt tủy tu hành thành Phật của chư Phật, Bồ tát đều nằm trong đó.
Chúng ta không còn nhiều thời gian nữa, nghiêm chỉnh học tập bộ kinh này là đủ rồi, không còn nghĩ đến những việc khác. Nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu. Trường thời ở đây chính là 3 năm, chắc chắn thành tựu. Thiện Đạo Đại sư nói rất hay, “bản vi phàm phu”. Chính là vì phàm phu, trong một đời tu hành thành Phật.
Tiếp tổng kết ngắn gọn: “Cố tri Tịnh Độ Tông ý, bản vi phàm phu, kiêm vi Thánh nhân, thử thuyết chi yếu diệu” (Cho nên biết, ý của Tịnh Độ Tông chính vì phàm phu, kiêm vì Thánh nhân. Đây là tinh yếu nhiệm mầu).
“Tại ư trực hiển Như Lai độ sinh vô tận chi bi nguyện” (Chính ở chỗ thẳng bày cái tâm bi nguyện độ sanh vô tận của Như Lai). Đức Phật có năng lực phổ độ hết thảy chúng sinh hay không? Có. Năng lực gì? Là trì danh niệm Phật. Chính là pháp môn này, có thể làm cho hết thảy những phàm phu phạm tội nghiệp cực nặng, trong một đời được thành Phật. Điều này quá tuyệt vời!
“Tảo tận phàm phu thoái khiếp chi tâm, phổ linh chính tín thử pháp, phát tâm niệm Phật, thừa Phật nguyện lực, tất đắc vãng sinh dã” (Quét sạch hết tâm khiếp sợ thoái lui của phàm phu, khắp làm cho chính tín pháp này, phát tâm niệm Phật, nương nguyện lực của Phật, thảy đều được vãng sinh).
Không có người nào là không vãng sinh. Pháp môn này thù thắng không gì sánh bằng. Gặp được, là có phúc đức lớn, có nhân duyên lớn. Quý vị gặp được rồi, quý vị có thể thành tựu được hay không? Then chốt ở chỗ thiện căn, phúc đức.
Thiện căn là gì? Khi tiếp xúc, người này có thể tin, có thể hiểu. Đó là thiện căn, có thể tin tưởng, có thể lý giải.
Phúc đức là gì? Phúc đức là thật tu, y giáo tu hành, nhất môn thâm nhập, một đời nhất định thành tựu. Đó là phúc đức. Người này có phúc đức lớn. Sau khi gặp được cũng có, nhưng không triệt để. Đây là thiện căn, phúc đức mỏng. Gặp được thì sao? Thì bán tín bán nghi, còn nghĩ rằng, chắc là còn có một pháp môn nào đó hay hơn nữa. Người đó còn muốn quảng học đa văn.
Còn một hạng người khác, thì sự vật quá nhiều, gia đình, thân tình, sự nghiệp… không buông được, hoặc việc tạp quá nhiều, không thể chuyên tâm, nên không thể thành công được. Đó là gì? Đó là không có phúc, phúc báo mỏng. Nhân duyên tuy thù thắng, nhưng một đời không thể thành tựu, cũng có nghĩa là người này không buông bỏ, không nhìn thấu được.
Tin tức tai nạn hiện nay, cho chúng ta biết quý vị chỉ còn bấy nhiêu thời gian đó thôi. Quý vị nghĩ thử xem cái nào quan trọng hơn. Quý vị có nên buông bỏ hay không? Dĩ nhiên, cuộc sống là số một, chỉ cần mình được ăn no, mặc ấm, với một căn nhà nhỏ để che gió chắn mưa là đủ rồi. Chúng ta giống như nhập thất vậy. 3 năm. 3 năm niệm đến công phu thành phiến là được rồi.
Nếu như thân tình, sự nghiệp trói chặt không buông bỏ được, cũng không sao. Quý vị cứ xem như là nghỉ phép 3 năm vậy. Xin nghỉ phép 3 năm, để nhập thất. 3 năm niệm đến công phu thành phiến, hoặc là tai nạn này không có nữa, hoặc là tai nạn này giảm. Mình còn lưu lại thế gian, tiếp tục lo việc thân tình, tiếp tục đi làm sự nghiệp của mình. Được thôi!
Đến khi nào thì quý vị về thế giới Cực Lạc? Quý vị sinh tử tự tại, muốn đi thì đi thôi. Quý vị muốn sống thêm vài năm nữa cũng không sao. Điều này được, đó chính là thật sự thành tựu. Đầu tiên giải quyết xong việc lớn sinh tử của chính mình, sau đó thân thể này vẫn còn, thì lưu lại thế gian này giúp cho chúng sinh. Đó là việc tốt, chẳng phải là không được, nhưng phải thật sự có bản lãnh này mới được.
Chân tướng sự thật và chân lý của Phật pháp cần phải thấu triệt, không thấu triệt, có một chút xíu tai nạn, quý vị đã không chịu được. Tâm ý hoảng loạn, sự tổn hại này rất lớn. Thật sự hiểu thấu triệt rồi, đừng nói đến những điều truyền ngôn, mà ngay cả sự thật phơi bày trước mặt, quý vị cũng không hề kinh sợ, như như bất động.
Quý vị không có vọng niệm, không có phiền não, không có khủng bố, thì quý vị có trí tuệ. Trí tuệ nghĩa là biết được phải xử lý cách nào, làm thế nào để hóa giải được tai nạn trước mắt. Có thể hóa giải được không? Chẳng có tai nạn nào là không hóa giải được. Vấn đề ở chỗ quý vị có định lực, có trí tuệ hay không? Chỉ cần quý vị có đủ 2 thứ này, thì mọi vấn đề chắc chắn giải quyết được. Trong 2 thứ này, thì định lực là công phu của người tu hành. Trí tuệ là báu vật của đức tính. Nó từ đâu mà có? Từ trong định mà có, chứ chẳng phải do học mà có.
Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy chúng ta: “Hết thảy chúng sinh đều có trí tuệ, đức tướng của Như Lai”. Phía sau trí tuệ là đức tướng, cho nên đức năng là năng lực có được từ trí tuệ. Tướng hảo đều là tự tính sẵn có, thì làm sao không giải quyết được vấn đề. Làm gì có lý đó! Chẳng những có thể giải quyết được tai nạn của địa cầu, mà những tai nạn tinh hệ trong vũ trụ vẫn có thể giải quyết được. Hệ mặt trời có vấn đề, hệ ngân hà có vấn đề, đều có thể giải quyết, chẳng có gì là không giải quyết được.
Pháp thân Bồ tát nhìn thấy những sự việc này, thấy là chuyện bình thường, là chuyện nhỏ. Nếu chúng ta muốn học năng lực này, thực tế mà nói, đạo Phật dạy chúng ta, chính là năng lực này. Năng lực này chính là công phu tu tập của chúng ta, tu đến Pháp thân Bồ tát. Vừa rồi có nói, tinh hệ xảy ra sự cố, thì quý vị có cách để giải quyết vấn đề. Nếu không có năng lực lớn như thế, mà chỉ có chút công phu nhỏ, thì chỉ giải quyết được vấn đề an toàn của tự thân, giải quyết được việc gia đình chúng ta, giải quyết việc xã hội nơi chúng ta cư trú, thì đó là chuyện quá dễ dàng, dễ như trở bàn tay. Dùng phương pháp nào đây?
Giảng kinh, dạy học, có hiệu quả không? Có hiệu quả. Vì sao vậy? Vì giảng kinh, dạy học giúp người giác ngộ, giúp người hiểu được chân tướng sự thật trước mặt. Chỉ cần chúng ta không mê, chỉ cần chúng ta buông bỏ phân biệt, chấp trước, thân tâm chúng ta phục hồi lại bình thường, khỏe mạnh, thì nơi chúng ta ở hết thảy mọi tai nạn đều không xảy ra, nó cũng phục hồi lại bình thường.
Ngạn ngữ có câu: “Người có phúc ở nơi có phúc”. Đầu tiên, chính bản thân mình phục hồi đến chỗ không tạo ác nghiệp, là tu phúc. Chỗ chúng ta ở, mọi người đều tu phúc. Ai cũng là người có phúc hết, thì môi trường chúng ta sinh sống đương nhiên là có phúc. Vì vậy, gọi là cảnh tùy tâm chuyển. Phong thủy theo tâm con người mà thay đổi, quý vị đã hiểu chưa?
Các nhà phong thủy thường nói 2 câu, đã cho chúng ta thấy rõ điều đó. Nhà phong thủy nói thế nào? Nói rằng: Người phúc ở đất có phúc. Đất phúc người có phúc ở. Ở chỗ này phong thủy không tốt, người có phúc sống ở đó, thì 3 năm sau sẽ trở thành tốt. Ở chỗ đó phong thủy rất tốt, con người tâm không tốt, chỗ họ ở 3 năm sau phong thủy sẽ thành không tốt.
Đó là những điều nhà phong thủy nói, không dối gạt đâu. Cái lý của nó giống như “cảnh tùy tâm chuyển” ở trong Phật pháp. Cảnh là môi trường cư trú. Vì vậy, chúng ta phải làm cho những tai hại tự nhiên được tiêu trừ, không gì khác là tu phúc. Mọi người đều tu phúc, tu thiện, thì vấn đề sẽ được hóa giải.
Chúng ta coi tiếp đoạn dưới đây. Đoạn thứ ba, đều là những lời bậc cổ đức dạy: “Chuyên tiếp thượng căn, bàng cập trung hạ, thử thuyết tòng văn tự biểu diện thượng, tự đồng ư Giáp nhi phản ư Ất (Chuyên tiếp thượng căn, phụ kèm trung, hạ, thuyết này trên mặt văn tự biểu hiện dường như đồng với đoạn Giáp, trái với đoạn Ất). Giáp là đoạn thứ nhất, Ất là đoạn thứ hai. Hình như rất gần với đoạn thứ nhất, không tương ưng với đoạn thứ hai. Đoạn thứ nhất là “Thượng bối vãng sinh, chỉ vì Bồ tát”. Quý vị xem chuyên tiếp thượng căn, nhưng mà bên dưới lại là phụ kèm trung, hạ. Nhìn từ văn tự mà nói, thì hình như là như vậy, nhưng trên thực tế thì sao? Trên thực tế lại bất đồng.
“Thật tắc dữ Ất đồng” (Thật sự, đồng với đoạn Ất), giống như đoạn thứ hai. Vốn vì phàm phu, kiêm vi Thánh nhân, đồng với đoạn này.
“Chủ ngã bối phàm phu quân khả trực đăng Cửu phẩm, cố dữ Giáp căn bản tương vi dã” (Chủ yếu phàm phu chúng ta đều được lên thẳng cửu phẩm, cho nên căn bản trái ngược đoạn một (Giáp) vậy).
Chính là lời dạy của Thiện Đạo Đại sư, vãng sinh cửu phẩm ở chỗ gặp duyên bất đồng. Nếu như quý vị gặp được nhân duyên thù thắng, thì quý vị sẽ được thượng thượng phẩm vãng sinh, cho nên vấn đề liên quan đến gặp duyên rất quan trọng.
Từ xưa đến nay, chư vị Tổ sư thường nói: “Đại phúc đức, đại nhân duyên”. Điều này thật sự không thể nghĩ bàn. Nếu quý vị nhận biết được, thì đó là đại trí tuệ. Nếu quý vị nắm bắt được cơ hội này, không để mất cơ hội, thì đó là phúc báo lớn. Chúng ta thấy từ những ví dụ của người xưa. Thân cận thiện tri thức, có người suốt cuộc đời không rời xa. Tăng đoàn của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, những người đệ tử Ngài, đã làm mẫu mực cho chúng ta thấy. Những người đó, họ biết được đức Thế Tôn là vị thầy tốt, biết được đức Thế Tôn là vị đại thiện tri thức, nên thân cận Ngài, không rời xa Ngài.
Trong số đệ tử có người theo Ngài mười mấy năm, hai mấy năm, ba mấy năm, có người theo Ngài suốt cuộc đời, đến khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập Niết bàn mới thôi. Đức Phật còn tại thế, thì không xa rời Ngài một ngày nào hết. Ngày nay chúng ta biết được, 1.255 vị này, trong đó có biết bao nhiêu vị là chư Phật, Bồ tát tái lai, phàm phu không hiểu. Họ đã làm mẫu mực để cho chúng ta thấy: Làm thế nào mới có thể thành tựu đạo nghiệp? Thế nào gọi là hộ trì Phật pháp? Cách làm của họ đã nói lên điều này: Người hướng đạo. Trong đó, giống như diễn viên diễn kịch vậy, có người thị hiện thông minh, trí tuệ, thần thông, thị hiện những thứ này, hết thảy đều học với đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Người thượng thượng căn, chuyên tiếp thượng căn. Có một số người thị hiện phàm phu, ngu si, độn căn, họ cũng một đời học với đức Phật Thích Ca Mâu Ni không rời, kèm thêm trung, hạ căn. Chúng thường theo đức Thế Tôn có hơn ngàn người, trong đó có đủ ba căn thượng, trung, hạ.
Dưới đây, đã nói lên điều này. Vì sao lại nói như vậy? Nói như vậy ở đây là chân tướng sự thật. Tăng đoàn thời đó thật sự là như vậy.
“Đản thử vị chuyên tiếp thượng căn giả, cái khủng thế gian thiển kiến chi sĩ mỗi vị Tịnh Tông, nãi nam công nữ bà chi hành, nhi bỉ thị chi, cố tác thị thuyết, dĩ tế chi dã” (Nhưng đây nói chuyên tiếp thượng căn là vì sợ người thế gian nhận thức thiển cận, thường cho Tịnh Độ Tông là để ông già, bà già thực hành, mà xem thường. Vì thế, nên nói chuyên tiếp thượng căn, để ngăn chặn vậy).
Đã nói lên dụng ý ở đây rồi, sợ người ta nói pháp môn Tịnh Độ là chuyên tiếp dẫn những bà già, ông già. Còn người có trí tuệ lớn, có phúc đức lớn, họ không học pháp môn này, làm khơi dậy lòng hoài nghi của người đời, cho nên từ xưa đến nay có rất nhiều người thông minh, có trí tuệ, có địa vị, có phúc đức lớn, đều quy y Tịnh Độ, chuyên niệm Phật A Di Đà, làm mẫu mực cho người thế gian. Bởi vì kinh luận của Tịnh Độ thấy rất đơn giản. Bộ kinh này có chú giải, nếu không có chú giải, chỉ xem bạch văn, một cuốn rất mỏng, người ta xem thường nó.
Khi tôi mới học Phật, khởi lòng tin đối với Tịnh Tông. Đã mất khoảng thời gian khoảng 20 năm, thầy Phương không giới thiệu cái này, không giới thiệu Tịnh Tông. Chương Gia Đại sư cũng không giới thiệu Tịnh Tông. Khi tôi thân cận thầy Lý, thầy mới giới thiệu cho tôi biết. Tôi bán tín bán nghi. Thầy ấy đã dùng rất nhiều phương tiện thiện xảo để dạy tôi, nhưng tôi vẫn không hề lay động. Tôi đã từng nói với quý vị rất nhiều lần rồi, tôi tiếp nhận Tịnh Tông là do giảng kinh Hoa Nghiêm.
Giảng kinh Hoa Nghiêm mười mấy năm, giảng được một nửa. Vào thời đó, giảng kinh Hoa Nghiêm 1 tuần giảng 3 lần. 2 lần giảng về Bát Thập Hoa Nghiêm, 1 lần giảng về Tứ Thập Hoa Nghiêm. Cả 2 đều giảng được khoảng một nửa. Trong kinh Hoa Nghiêm, thấy Ngài Văn Thù và Phổ Hiền đều phát nguyện cầu sinh Tịnh Độ, hơn nữa dẫn theo trong pháp hội Hoa Tạng, gồm 41 vị Pháp thân Đại sĩ đồng quy Cực Lạc, về đó học với Phật A Di Đà. Tôi đọc đến đoạn kinh này, đã lãnh hội được ý nghĩa của nó một cách sâu sắc. Thế giới Hoa Tạng không tốt sao? Phật Tỳ Lô Giá Na không bằng Phật A Di Đà sao? Đây là những vấn đề của tôi. Vì sao Ngài Văn Thù và Phổ Hiền, lại muốn dẫn hết những người đó về thế giới Cực Lạc? Sự việc này đã xuất hiện trong kinh Hoa Nghiêm. Đương nhiên, cái lý này vẫn còn ở trong kinh Hoa Nghiêm. Đọc lại tỉ mỉ kinh Hoa Nghiêm, thì sẽ hiểu thôi.
Bồ tát ở thế giới Hoa Tạng, đoạn tận 41 phẩm tập khí vô minh, cần phải tam đại A tăng kỳ kiếp, thời gian dài như thế. Những vị pháp thân Bồ tát này, nếu như về thế giới Tây Phương Cực Lạc, thân cận Phật A Di Đà, ở đó tu tập, như các vị pháp thân Bồ tát đây, thì 41 phẩm tập khí vô minh, chỉ trong một thời gian ngắn là đoạn tận.
Động tác này thật sự quá giỏi, đã nâng cao pháp môn Tịnh Độ, chẳng những nâng cao bằng với Hoa Nghiêm, mà còn siêu việt hơn Hoa Nghiêm. Chỗ trở về cuối cùng của Hoa Nghiêm, sự thành tựu viên mãn, là ở chỗ Thập Đại Nguyện Vương quy hướng Cực Lạc. Vì thế, nên tôi đã quay đầu lại thật sự đọc Tịnh độ Ngũ Kinh. Đã có lòng tin vững chắc đối với Tịnh Độ Tông, cho nên tôi nghĩ đến người xưa thường dạy, pháp môn này gọi là pháp khó tin.
Con đường chính bản thân tôi đi, phải mất hơn 20 năm. Giảng kinh Lăng Nghiêm, giảng đại ý kinh Pháp Hoa, tôi mới làm quen với Tịnh Độ, thật là không dễ. Nếu như tôi không có một số nền tảng của các bộ Đại kinh này, thì đối với Tịnh Độ vẫn bán tín bán nghi. Sau này, thấy rất nhiều bậc cổ đức, mới biết chúng ta thật sự còn kém họ rất nhiều, theo không kịp. Họ đều chọn pháp môn này, tuyệt đối chẳng phải là ngu si đâu, chắc chắn trong đó có lý do của họ, khiến cho chúng ta tiếp nhận, thật sự tiếp nhận, nghiêm chỉnh học tập. Tịnh độ Ngũ Kinh giảng qua một lần, ngay cả Vãng Sinh Luận cũng giảng một lần, kinh Di Đà và kinh Vô Lượng Thọ là giảng nhiều nhất.
Dưới đây dẫn chứng cuốn Di Đà Sớ Sao: “Như Di Đà Sớ Sao viết, hựu Khởi Tín Nhân Duyên Phân Sớ” (Như Di Đà Sớ Sao nói: Lại trong sớ giải Nhân Duyên Phần của Khởi Tín Luận). Trong Sớ Sao, Liên Trì Đại sư dẫn chứng Khởi Tín Luận, trong đoạn chú giải Nhân Duyên Phần. Sớ là chú giải. “Minh Tín vị sơ tâm, hữu tứ chủng cơ” (Nói sơ tâm của Tín vị, có 4 loại). Ở đây, nói đến căn cơ của chúng sinh bất đồng. Đây là Tín vị sơ tâm. Dĩ lễ sám diệt tội bị sơ cơ (Dùng lễ sám diệt tội cho hạng sơ cơ). Đây là sự thật. Nhập môn ở đâu đây? Bắt đầu hạ thủ từ đâu? Từ lễ sám diệt tội.
Chúng ta đối với Đại thừa, khó mà sinh khởi tín tâm như thế. Nguyên nhân là vì sao? Là vì nghiệp chướng sâu nặng, cho mình là hay, đối với các bậc Hiền Thánh cũng không để vào mắt. Bản thân chúng ta đều mắc phải căn bệnh này. Lễ sám là phương pháp diệt tội rất hay. Lễ sám là gì? Là thu tâm.
Tôi học Phật, tôi vô cùng biết ơn Pháp sư Sám Vân. Tuy thầy không dạy tôi điều gì, nhưng tôi ở trong ngôi nhà tranh của thầy hơn 5 tháng. Tôi công quả ở đó. Trong ngôi nhà tranh đó, có hết thảy 5 người. 3 người xuất gia gồm: Pháp sư Sám Vân, Pháp sư Bồ Diệu, Pháp sư Đạt Tông. Không biết Pháp sư Đạt Tông bây giờ còn hay mất, nhưng Pháp sư Sám Vân và Pháp sư Phổ Diệu đều vãng sinh cả rồi. Ngoài ra, còn có 1 vị cư sĩ, tên là Châu Kính Trụ. Năm đó, ông ta 70 tuổi, còn tôi năm đó 30 tuổi.
Là người nhỏ tuổi nhất, cho nên tôi làm công quả cho đạo tràng nhỏ này. Hết thảy mọi công việc phục vụ trong đạo tràng, đều do một mình tôi làm. Nấu cơm bằng củi, vì ở trên núi nên không có điện cũng không có nước. Sau này, chúng tôi đã nghĩ ra cách lấy nước. Chúng tôi dùng cây tre, khoét thông mắt tre, trên núi có một con suối, chúng tôi dùng ống tre để dẫn nước về. Nhưng mà trên núi có dã thú, nên chúng thường làm hư ống dẫn nước, lại phải lên núi để sửa lại. Để có chất đốt, phải đi lượm củi. Ở trên núi, lá cây và cành cây rụng rất nhiều, nên lượm về đốt. Tự mình trồng rau, sống cuộc sống nông thôn ngày xưa. Tôi còn trẻ. Những việc này tôi đã được học từ nhỏ. Tôi lo cho 3 vị pháp sư, 1 vị trưởng giả, 1 ông già.
Ngôi nhà tranh này, cách thị trấn Bộ Lý khá xa. Tôi cũng không biết là bao nhiêu cây số nữa, nhưng mỗi lần đến Bộ Lý mua thực phẩm, mỗi tuần đi một lần, phải mất một ngày đi bộ. Đi bộ từ nhà tranh, đi đến Bộ Lý mất khoảng 3 tiếng đồng hồ, quay về 3 tiếng nữa, hết thảy là 6 tiếng, 2 tiếng đồng hồ mua đồ. Mỗi tuần đi mua thực phẩm một lần. Rau xanh thì tự trồng.
Pháp sư Sám Vân giao bài tập cho chúng tôi, là mỗi ngày lạy Phật 800 lạy. Sáng sớm thức dậy, lạy 300 lạy. Buổi trưa, sau khi ăn trưa và dọn dẹp xong, thì lễ Phật 200 lạy. Công phu tối là 300 lạy. Trong nhà tranh, vì buổi tối không có điện, không có đèn, cho nên thường khoảng 8 giờ tối là đi ngủ, 2 giờ sáng thức dậy. Thức dậy làm vệ sinh cá nhân xong, thì lạy 300 lạy. Lạy xong thì bắt đầu nấu ăn sáng.
Bữa ăn sáng, Pháp sư Sám Vân rất chú trọng. Mỗi sáng, đều uống sữa đậu nành, do chính mình xay. Buổi tối, trước khi đi ngủ, lấy đậu nành và đậu phộng trộn đều rồi ngâm nước. Sáng hôm sau, thức dậy thì xay đậu. Trong sữa đậu nành có đậu phộng nên uống rất ngon.
Người xuất gia muốn sống một mình, thì việc gì cũng phải biết làm mới được. Thời chiến tranh, chúng tôi là những học sinh sơ tán, nên đã tập thành thói quen rồi. Giặt quần áo, may vá đều có thể làm được. Như vậy, hơn 5 tháng ở trên núi, tôi đã lạy mười mấy vạn lạy, dập đầu lạy mười mấy lạy, tiêu nghiệp chướng!
Lễ sám diệt tội, thu phục được tập khí phiền não của chính mình. Đó là nền tảng cơ bản để tôi đến Đài Trung học giảng dạy. Nhờ có nửa năm nghiêm chỉnh tu tập dưới sự hướng dẫn của Pháp sư Sám Vân mà tôi được chút thành tựu. Khi ở trên núi, Pháp sư Sám Vân tu pháp môn Tịnh Độ. Thầy kêu tôi xem Sớ Sao, xem Yếu Giải, xem Viên Trung Sao, nên đối với 3 bộ chú giải này tôi rất quen thuộc. Đại cương của 3 cuốn sách này, tôi đã vẽ thành sơ đồ. Khi đã vẽ được rồi, tôi cảm thấy vô cùng kinh ngạc, mới biết được cái hay trong kinh điển của đạo Phật. Thật sự bái phục sát đất. Ngoài những cuốn sách này ra, thầy ấy còn bảo tôi đọc cuốn Ấn Quang Đại Sư Văn Sao. Đó là thời khóa nửa năm của tôi ở trên núi. Có nền tảng này rồi, tôi đến Đài Trung học giảng kinh. Không bỏ phí thời gian, phải nhập môn từ chỗ đó, tiếp nhận sự huấn luyện cơ bản.
Ngày nay, chúng ta có môi trường tốt như thế này, vì sao sự tu học không tiến bộ? Nguyên nhân ở chỗ mọi người không nghiêm chỉnh lễ sám diệt tội. Nếu như bắt đầu hạ thủ công phu từ chỗ này, thì tình hình sẽ khác rồi. Nghiêm chỉnh tu tập, một ngày 800 lạy là ít nhất. Vì tôi phải dùng rất nhiều thời gian lo cho cuộc sống của mọi người, phục vụ ở trên núi chỉ có một mình tôi, cho nên việc gì cũng phải làm.
“Dĩ tu tập chỉ quán bị trung cơ, dĩ cầu sinh Tịnh độ bị thượng cơ. Sơ vị nghiệp chướng chúng sinh, trung vị phàm phu nhị thừa, thị tri Tịnh Tông thị Đại thừa Bồ tát sở tu hỹ”. Đây là lời trong Khởi Tín Luận Sớ nói. (Dùng tu tập chỉ quán cho hạng Trung cơ, dùng cầu sinh Tịnh Độ cho hạng Thượng cơ. Đầu tiên, vì chúng sinh nghiệp chướng, giữa vì phàm phu Nhị thừa, đó mới biết Tịnh Tông là thuộc Bồ tát Đại thừa tu tập). Hựu Di Đà Yếu Giải, vị trì danh pháp môn thâm diệu, phá tận nhất thiết hý luận, trảm tận nhất thiết ý kiến, duy Mã Minh, Long Thọ, Trí Giả, Vĩnh Minh chi lưu, triệt để hà đảm đắc khứ (Lại Di Đà Yếu giải, nói pháp môn Trì danh rất sâu diệu, phá hết tất cả hý luận, chém sạch hết thảy ý kiến, chỉ các bậc Mã Minh, Long Thọ, Trí Giả, Vĩnh Minh triệt để gánh vác).
Ở đây, đã chỉ dẫn ra thượng căn. Mã Minh, Long Thọ là chư vị Tổ sư ở Ấn Độ. Ở trong truyện ký có ghi chép lại, họ là người đã chứng được quả vị Sơ Địa, là Sơ Địa Bồ tát. Ngài Trí Giả và Vĩnh Minh là người Trung Quốc. Trí Giả Đại sư là vị Tổ của Tông Thiên Thai. Vĩnh Minh Diên Thọ, là vị Tổ đời thứ 6 của Tông Tịnh Độ ở Trung Quốc, đức Phật ứng hóa mà đến.
Trí Giả Đại sư là hóa thân của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Vĩnh Minh Diên Thọ Đại sư là hóa thân của Phật A Di Đà. Pháp môn Tịnh Độ, phải những người như họ mới triệt để gánh vác được, chẳng phải là người thường đâu.
Sự thâm diệu của pháp môn này là phá hết hết thảy hý luận. Hết thảy hý luận là gì? Không phải là nói về pháp thế gian, mà hết thảy kinh điển của chư Phật, Bồ tát nói ra đều là hý luận. Sao lại phiền phức như thế? Một câu A Di Đà Phật, chẳng phải là sẽ thành Phật sao? Còn làm những chuyện này làm gì chứ?
Câu này không dễ dàng chút nào! Vì sao vậy? Vì 84.000 pháp môn đều là đường vòng. Con đường này đi thẳng, chỉ dạy quý vị một câu niệm Phật. Ngoài câu niệm Phật ra, thì hết thảy đều buông bỏ. Phải mất bao nhiêu thời gian để thành tựu? Trong kinh Di Đà nói, “hoặc 1 ngày đến 7 ngày”.
Trong lịch sử Trung Quốc, chúng ta thấy, chấp trì danh hiệu, niệm Phật vãng sinh, thông thường là 3 năm, sinh về thế giới Tây Phương Cực Lạc, gặp được đức Phật A Di Đà, được bản nguyện oai thần của Phật A Di Đà gia trì, thì quý vị chính là Bồ tát A Duy Việt Trí, chẳng phải quý vị thông hết được sao? Đâu cần phải tốn nhiều thời gian để học tập nữa. Đây là hạng người nào? Ai có thể tin được? Là những người như Mã Minh, Long Thọ, Trí Giả, họ có thể tin được.
Chém sạch hết thảy ý kiến, nghĩa là không cho quý vị khởi tâm động niệm, thì đâu còn tâm phân biệt, chấp trước, đoạn phiền não, phá Phiền não chướng; phá tận hết thảy hý luận, là phá Sở tri chướng.
Một câu niệm Phật mà phá được 2 loại chướng ngại, cho nên dưới đây cho chúng ta biết: “Cái nhân trì danh nhất pháp nãi chí viên chí đốn vô thượng pháp môn” (Bởi vì một pháp Trì danh chính là pháp môn chí viên chí đốn vô thượng). Nghiệp chướng của chúng ta sâu dày, người sơ học làm sao mà biết được? “Chí” là đến mức cuối cùng, viên mãn cực kỳ. Viên Giáo nào cũng không thể đem so với nó được. Viên trung chi viên. “Đốn” là đốn siêu. Đốn trung chi đốn. “Pháp môn vô thượng”, là pháp môn cao nhất trong 84.000 pháp môn, không có pháp môn nào cao hơn nữa. Có thể tin được không? Người tin được điều này, đó chính là thượng căn. Người không thể tin được, là trung, hạ căn tính. Đây là lời nói thật.
“Phi tư lượng phân biệt chi sở năng cập cố vân thâm diệu. Nan tín chi pháp” (Không thể suy lường phân biệt hiểu được, nên nói là sâu diệu. Là pháp khó tin). Tiểu thừa Quyền giáo rất khó lòng tiếp nhận. Những người được gọi là tri thức phân tử, tâm hiếu học. Đó đều là chướng ngại.
Hiếu học là Sở tri chướng. Có Sở tri chướng, thì không thể được định, không thể khai ngộ, vì vọng tưởng quá nhiều. Vì vậy, ngày xưa, đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã làm mẫu mực cho chúng ta. 19 tuổi, Ngài ra khỏi nhà, đi tham học đến năm 30 tuổi. Tham học 12 năm. Trong 12 năm này, hết thảy những tôn giáo, học phái của Ấn Độ, những kinh điển tu học của họ, Ngài đều học qua hết. Vì sao vậy? Vì việc truyền pháp sau này, khiến cho xã hội đại chúng có lòng tin.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chẳng phải là người không học võ thuật. Cái gì Ngài cũng học qua. Thân phận Vương tử địa vị đặc thù, mọi người đều tin tưởng Ngài. Dưới cội cây Bồ đề, Ngài buông bỏ hết những thứ đã học trong 12 năm. Những thứ học trong 12 năm là gì? Là Sở tri chướng. Ngài buông bỏ Sở tri chướng.
Trong quá trình tu học, Ngài từng sống cuộc sống khổ hạnh tăng. Đó là gì vậy? Đó là phá Phiền não chướng, có thể buông bỏ tập khí phiền não. Buông bỏ những thứ đã học trong 12 năm, buông bỏ hết thảy Phiền não chướng, buông bỏ Sở tri chướng, thế mới có thể khai ngộ, mới có thể đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tính.
Sự biểu diễn của Ngài là để cho người đời sau chúng ta thấy. Nhất định chúng ta phải nhớ, suốt cuộc đời của đức Thế Tôn là Ngài biểu diễn cho chúng ta thấy, giống như diễn kịch vậy. Trong kinh Phạm Võng, Ngài đã tiết lộ thân phận mình. Ngài đến thế gian này lần này, thị hiện làm Phật đã 8.000 lần rồi. Nói cách khác, từ kiếp lâu xa, Ngài đã thành Phật. Trong số đệ tử, thậm chí những người xuất gia hộ pháp, đều là những vị Phật, Bồ tát hóa thân.
Đến để diễn vở kịch này, đức Phật đóng vai chính, còn những người khác đóng vai phụ. Các Ngài biểu diễn cho chúng ta xem, vì người mà diễn thuyết. Vũ đài này, chính là hành nghi suốt cuộc đời Ngài. Ngài biểu diễn suốt cuộc đời, khiến chúng ta từ từ cảm nhận được chân tướng sự thật.
“Đản mạch trực niệm khứ” (Chỉ niệm thường xuyên, khăng khăng niệm không buông). “Bất giả phương tiện” (Không cần sử dụng bất cứ một phương pháp nào để trợ giúp). “Bất lạc tư lượng” (Không rơi vào sự suy lường, để tâm tán loạn). Pháp môn này là “Trực khởi trực dụng, tự đắc tâm khai” (Khởi niệm thẳng, dụng công thẳng, tự nhiên tâm mở).
Đó là bí quyết niệm Phật. Bậc cổ đức nói ra để Chính-Trợ song tu. Trì danh Niệm Phật là chính tu. Dùng những phương pháp khác để trợ giúp, gọi là trợ tu. Liên Trì Đại sư dạy chúng ta rằng, Trì danh Niệm Phật là chính tu, cũng dùng Trì danh Niệm Phật làm trợ tu. Chính-trợ, đều là trì danh.
Quý vị có cần phải trì giới không? Không cần trì giới nữa. Vì sao lại không cần trì giới? Suốt 24 giờ đồng hồ, quý vị chỉ có một câu A Di Đà Phật, quý vị còn phá giới được sao? Được viên mãn rồi. Có thể nói Tam Phúc, Tam Tuệ, Lục Hòa, Lục Ba la mật, Thập Nguyện, hết thảy đều ở trong một câu danh hiệu. Thật là không thể nghĩ bàn! Lý như vậy, Sự cũng như vậy. Người thật sự có thể tu tập như thế, quý vị có thể nói họ không phải là bậc thượng căn được không? Phải là bậc thượng thượng căn mới có thể làm được.
2 câu sau đây có đề cập đến: “Đương hạ phá tận hý luận. Đãng trừ nhất thiết kế độ phân biệt” (Ngay đó phá sạch hý luận là đoạn Sở tri chướng. Trừ sạch hết thảy tính toán so đo phân biệt, là đoạn Phiền não chướng). “Tính toán so đo” là phiền não Kiến Tư hoặc, “phân biệt” là phiền não Trần Sa hoặc. Một câu niệm Phật có thể đoạn trừ Phiền não chướng, Sở tri chướng.
“Cố vân, như thị thâm diệu chi pháp, duy hữu Mã Minh đẳng nhục thân đại sĩ, thỉ năng trực hạ thừa đương, triệt để hà đảm dã” (Cho nên, pháp sâu diệu như thế, chỉ có các bậc nhục thân Đại sĩ như Mã Minh mới có khả năng thẳng hạ công phu, đảm đương gánh vác một cách triệt để). Đây đâu phải là người thường, thật sự trong tâm chỉ có một câu A Di Đà Phật. Ngoài câu A Di Đà Phật ra, thì không có gì nữa. Đây là người niệm Phật. 84.000 pháp môn, tìm không ra một người có tâm thuần tịnh như thế. Niệm niệm cùng với tự tính tương ưng.
Quý vị xem, Đại sư Huệ Năng kiến tính, tự tính như thế nào. Ngài đã nói ra: Tự tính là thanh tịnh. Đâu ngờ tự tính vốn tự thanh tịnh. Tự tính bất sinh bất diệt. Tự tính vốn tự đầy đủ. Tự tính vốn không dao động. Quý vị xem một câu niệm Phật, có tương ưng với những điều trên đây không?
Sau cùng, còn có thể sinh vạn pháp, cho nên chúng ta học Tứ Thập Hoa Nghiêm, thấy Thiện Tài đồng tử tham vấn với Tỷ khiêu Đức Vân. Tỷ khiêu Đức Vân tu Ban Chu Tam Muội, khai thị cho Thiện Tài đồng tử 21 pháp môn Niệm Phật. Triển khai ra, chính là hết thảy pháp môn mà mười phương ba đời hết thảy chư Phật, vì hết thảy chúng sinh mà giảng. Một câu niệm A Di Đà Phật bao hàm hết tất cả. Triển khai ra chính là Năng sinh vạn pháp. Vô lượng vô biên pháp môn, không có tách rời câu A Di Đà Phật.
Điều này có hay không? Niệm Công đưa ra mấy vị nhục thân Bồ tát, giới thiệu sơ lược về họ: “Mã Minh đại sĩ, Đông Thiên Trúc nhân” (Đại sĩ Mã Minh, người Đông Thiên Trúc). Thiên Trúc là Ấn Độ. Ngài là người Đông Ấn Độ. “Truyền Phật tâm ấn, vi Thiền Tông thập nhị tổ” (Truyền tâm ấn Phật, là Tổ thứ 12 Thiền Tông). Sau khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni diệt độ, thì Giáo do Ngài A Nan truyền, còn Tông thì do Tôn giả Ca Diếp truyền, cho nên nói Tôn giả Đại Ca Diếp, là vị Tổ đời thứ nhất của Thiền Tông. Về bên Giáo, thì Ngài A Nan là vị Tổ đời thứ nhất. Ngài A Nan truyền Giáo, gọi là Tông Môn Giáo Hạ.
Vị Tổ đời thứ 12 của Thiền Tông, là Bồ tát Mã Minh. “Trùng hưng đại thừa, tạo Đại thừa Khởi Tín Luận, luận mạt khuyến đạo chúng sinh niệm Phật cầu sinh Tịnh độ” (Trùng hưng Đại thừa, viết Đại thừa Khởi Tín Luận, luận về đời Mạt pháp, khuyến khích chúng sinh niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ). “Long Thọ Đại sĩ, là người Nam Thiên Trúc, là vị Tổ thứ 14 của Thiền Tông”, mở tháp sắt, thấy được mật pháp của Bồ tát Kim Cương Tát Đỏa truyền thọ. Vì thế, Ngài trở thành Tổ sư của Mật Tông.
“Vào Long cung, thỉnh kinh Hoa Nghiêm, cho nên Ngài lại là Sơ Tổ của Tông Hoa Nghiêm, lại rộng tạo các bộ luận, tận lực hoằng pháp môn Tịnh Độ. Kinh Lăng Già huyền ký nói, Ngài chứng được Hoan Hỷ Địa”. Đây là nói về địa vị của Ngài. Ngài là Bồ tát Sơ Địa. Vãng sinh Tịnh độ, cho nên lại gọi là Tổ sư của Tịnh Tông. Chúng ta tôn xưng vị Đại sĩ này là Tổ sư của 8 tông. Phía trước nói 4, phía sau có Thiên Thai, Nam Sơn (Luật Tông), Pháp Tướng, Tam Luận, đều thừa nhận Ngài là Tổ sư. Vì thế, Long Thọ Bồ tát và Đại thừa bát tông. Bất luận tông nào cũng có sự quan hệ mật thiết đối với Ngài. Do vậy, Ngài là Tổ sư của 8 tông. Truyện ký của Ngài có trong Đại Tạng Kinh. Trong Cao Tăng Truyện cũng có. Quý vị có thể tìm đọc. Trong truyện ký nói, Ngài chứng được Sơ Địa. Sơ Địa là pháp thân Bồ tát, chứ chẳng phải người tầm thường.
Thiên Thai Đại sư nói, vị này thật sự thành Phật rồi, là Phần chứng tức Phật. Trên cơ bản, thì Ngài đã siêu việt mười pháp giới, trụ ở Nhất chân pháp giới, là người rất thông minh, minh tâm kiến tính rồi. Đọc kinh điển mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni truyền lại, đức Thế Tôn thuyết pháp 49 năm, chỉ 3 tháng là Ngài học xong.
Bộ Đại Tạng Kinh này, 3 tháng là Ngài tốt nghiệp. Các vị nghĩ thử xem có làm được hay không? Sự việc này có thật hay không? Tôi nghĩ chắc là thật, không phải giả đâu. Vì sao vậy? Vì Đại sư Huệ Năng đã làm một tấm gương cho chúng ta thấy. Đại sư Huệ Năng kiến tính, Ngài là người không biết chữ, bất cứ bộ kinh nào của đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói, có người đọc cho Ngài nghe, là Ngài có thể giảng giải cho họ nghe, không cần học. Vì thế, Bồ tát Long Thọ xem Đại Tạng Kinh, có cần xem hết không? Không cần đâu, giống như Đại sư Huệ Năng vậy. Chúng ta thấy trong Pháp Bảo Đàn Kinh có ghi lại một đoạn như sau:
Thiền sư Pháp Đạt, suốt đời thọ trì kinh Pháp Hoa, nhưng chưa khai ngộ. Đọc 3.000 bộ kinh Pháp Hoa, chúng ta biết bộ kinh này rất dài, có phân lượng rất lớn, một ngày nhiều nhất là đọc được một bộ, cũng phải mất 7, 8 giờ đồng hồ. Mỗi ngày đọc 1 bộ, 3.000 bộ, là nói con số chẵn, chắc chắn là vượt trên số 3.000, và phải đến 10 năm.
10 năm đọc một bộ kinh là cũng giỏi lắm đấy, nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu. Một hôm, Ngài đến Tào Khê, tham vấn với Lục Tổ Đại sư. Khi lễ Lục Tổ, bái đầu không sát đất. Đảnh lễ Lão Hòa thượng 3 lạy, nhưng đầu lại không sát đất.
Đứng dậy, Lục Tổ hỏi thiền sư, vừa rồi tôi thấy ông lễ bái mà đầu không sát đất, ông có điều gì đáng kiêu ngạo vậy? Thiền sư nói, con đã đọc được 3.000 bộ kinh Pháp Hoa rồi. Người đời nay đáng để kiêu ngạo đấy. Bị Lục Tổ nhìn thấu rồi, Ngài hỏi: Đại ý của kinh Pháp Hoa là gì? Thiền sư không trả lời được, hỏi ngược lại Lục Tổ. Lục Tổ nói, ta chưa hề nghe qua bộ kinh này, ngươi đọc cho ta nghe thử xem. Kinh Pháp Hoa có 28 phẩm. Thiền sư đọc đến phẩm thứ 2, Lục Tổ nói, được rồi, không cần đọc nữa. Ta hiểu hết rồi. Lục Tổ giảng cho thiền sư. Thiền sư liền khai ngộ.
Lục Tổ Đại sư giảng cho chúng ta. Chúng ta chắc không khai ngộ. Vì sao vậy? Vì không có Pháp Hoa Tam Muội. Thiền sư 10 năm đọc bộ kinh này, nên được Pháp Hoa Tam Muội, nghĩa là trong kinh Pháp Hoa, thiền sư đã được tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng. Thiền sư đạt được điều này. Vì vậy, khi Lục Tổ giảng là thiền sư đại triệt đại ngộ, hiểu rõ hết, lễ bái, lễ tạ Lục Tổ, thì đầu sát đất rồi.
Điều này, cho chúng ta một bài pháp rất lớn, người đã minh tâm kiến tính, có cần học hết kinh điển hay chăng? Không cần! Chỉ cần đọc vài trang, đọc vài câu là được, là hiểu rồi. Một bộ kinh đọc vài câu, thì 3 tháng đương nhiên là một thời gian rất dài đấy. Kinh điển mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng một đời, Ngài đều thông hết. Do đó, Bồ tát Sơ Địa phá vô thỉ vô minh, nhưng vẫn còn tập khí. Tập khí chưa đoạn, giống như Thiền sư Pháp Đạt vậy, có một chút gì đó cho rằng mình rất giỏi, trên thế gian này không có một người nào giỏi hơn mình.
Ở Sơ Địa gọi là Tiểu Bồ tát, vừa mới nhập môn thôi. Đại Long Bồ tát thấy, chăm sóc cho Ngài, dẫn Ngài đến Long cung. Bồ tát Long Thọ hiếu học, chẳng phải ngươi thích học sao, quảng học đa văn sao? Dưới Long cung kinh điển rất phong phú, dắt ngươi đến đó mà xem.
Thấy cuốn Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, đại bản, bộ hoàn chỉnh, bộ kinh mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng trong 14 ngày, có dung lượng bao nhiêu đây? Có mười tam thiên đại thiên thế giới vi trần bài kệ, một tứ thiên hạ vi trần phẩm. Bộ kinh này mang về địa cầu của chúng ta, thì không thể để được. Bồ tát Long Thọ thấy cuốn kinh này, thì một chút tập khí ngạo mạn đó lập tức không còn nữa, mới biết rằng những gì suốt đời mình học được còn quá ít.
Thấy cuốn đại bản Hoa Nghiêm, chúng sinh ở cõi Diêm Phù Đề, chúng sinh ở trên quả địa cầu, không có một người nào có thể thụ trì được, không thể học được. Ngài xem tiếp trung bản, phân lượng của trung bản cũng còn rất lớn, không khế hợp với căn cơ của chúng sinh ở thế giới Sa bà này.
Cuối cùng, Ngài xem tiểu bản. Tiểu bản là gì? Là mục lục đề cương, giống như chúng ta xem Tứ Khố Toàn Thư vậy. Tứ Khố là đại bản. Tứ Khố Hội Yếu là trung bản, tiểu bản là mục lục đề cương. Chỉ có 5 cuốn, đóng thành 5 cuốn, mục lục đề cương.
Tên của mỗi cuốn sách, ai là người trước tác, giới thiệu sơ lược nội dung đại ý bên trong. Ngài nói cuốn này được đấy. Cuốn này đối với chúng sinh Diêm Phù Đề không có vấn đề gì. Phân lượng là bao nhiêu? Mười vạn (100.000) kệ. Người Ấn Độ tính 4 câu là một bài kệ. Mười vạn kệ, nghĩa là bốn mươi vạn câu (400.000 câu).
Ngày nay, chúng ta xem bộ kinh Hoa Nghiêm, là mục lục đề cương của kinh Hoa Nghiêm. Bộ kinh này do Bồ tát Long Thọ truyền đến thế gian, cho nên Ngài là Tổ sư của Tông Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm do Ngài truyền đến.
Trước Ngài, thì kinh Hoa Nghiêm không lưu truyền ở thế gian này. Đây là bộ kinh đức Thế Tôn khi ở trong định, giảng 14 ngày. Sau khi giảng xong, Bồ tát Đại Long đã thu giữ lại ở Long cung. Vì thế, từ đây cho chúng ta có một cảm nhận rất sâu sắc, khai ngộ là việc rất cấp thiết, minh tâm kiến tính là việc cấp thiết. Sau khi kiến tính, thì thông hiểu hết, hoàn toàn không còn chướng ngại gì.
Chân tướng sự thật này, trong kinh điển Đại thừa, đức Phật thường dạy, “một kinh thông, hết thảy kinh thông”. Thông được một pháp môn, thì thông hết thảy mọi pháp môn, cho nên kêu quý vị, nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu là vậy.
Hết thảy mọi pháp môn đều có thể thông đến minh tâm kiến tính, cho nên pháp môn bình đẳng, không có cao thấp. Con đường nào cũng có thể đến nhà, chỉ cần quý vị chịu đi là được rồi. Quý vị không cần phải đi tìm con đường khác. Tìm đường khác, mất thời gian, vất vả, mà lại không đến được nhà.
Nhất môn thâm nhập, một bộ kinh, một pháp môn, chắc chắn được định. Định, nghĩa là Tam Muội. Sau khi được định rồi, thì tiếp tục tiến lên nữa, không thay đổi phương hướng, thì chắc chắn khai ngộ.
Sau khi ngộ, thì cũng giống như Bồ tát Long Thọ vậy. Học tập rất dễ dàng, không hề có chút khó khăn nào hết. Vừa thấy là hiểu, vừa nghe là hiểu ngay, vừa tiếp xúc là hiểu được hết. Đây là bí quyết tu học trong Phật pháp. Nếu không tin, tự cho mình là thông minh, thì con đường của họ đi còn rất xa. Họ còn gặp rất nhiều khó khăn. Thật sự nghe lời, nghe theo lời dạy của các vị tiền bối, nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu. Đây chính là một con đường gần nhất.![]()



























































































































































Bình luận bài viết