Thông tin

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH GIẢI DIỄN NGHĨA - TẬP 41

 

 

Chủ giảng: LÃO PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG

*****

Trưởng ban biên dịch:

TK. Thích Đồng Bổn

 

QUYỂN 5

(Tập 41-50)

 

TẬP 41

 

Giảng ngày 16 tháng 5 năm 2010 Tại Tịnh Tông Học Viện Úc Châu

Biên dịch: Tử Hà - Biên tập: Bình Minh

 

Các vị pháp sư, các vị đồng học, mời xem tiếp Đại thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang 43, dòng thứ 5, từ dưới lên. Chúng ta học từ đoạn giữa.

Di Đà chi nhất thừa nguyện hải, lục tự hồng danh, viên dung cụ đức, siêu tình ly kiến, cử thể thị sự lý vô ngại, sự sự vô ngại chi nhất chân pháp giới, cố phi tư lượng phân biệt chi sở năng tri, ngữ ngôn văn tự chi sở năng cập, cố vân phi cửu giới tự lực sở năng tín giải (Biển nguyện Nhất thừa của Phật Di Đà, nơi 6 từ Hồng danh dung chứa trọn đầy đủ các đức, vượt tình lìa kiến, toàn thể là Nhất chân pháp giới sự lý vô ngại, sự sự vô ngại. Vì thế, không thể suy lường, vượt ngoài văn tự ngữ ngôn, không phải do tự sức mình trong chín pháp giới hiểu được).

Hôm qua, chúng ta học đến đoạn này. Đây là những lời khuyên bảo hết lòng của chư vị Tổ sư, giúp chúng ta xây dựng tín tâm đối với pháp môn Tịnh độ, vì chúng ta mà nói lên bản nguyện của Di Đà, thật sự kỳ vọng tất cả chúng sinh, trong một đời có thể thành tựu được vô thượng Bồ đê. Đó gọi là Biển nguyện Nhất thừa.

Việc này, có thể làm được hay không? Trong kinh luận thường nói, “trược ác phàm phu, ngũ trược ác thế”. Những phàm phu tạo tác ác nghiệp này, trong một đời có thể thành Phật được chăng? Điều này ai có thể tin được? Thực tế mà nói, điều này có ai tin được hay không không quan trọng, quan trọng nhất là bản thân chúng ta có tin tưởng được hay không? Khiến cho chúng ta nhớ đến Di Đà Yếu Giải của Đại sư Ngẫu Ích, nói cho chúng ta về sáu đức tin. Đức tin thứ nhất trong 6 đức tin là tin chính mình, thứ hai mới là tin người. Người ở đây là chỉ cho đức Phật Thích Ca Mâu Ni và đức Phật Di Đà. Nếu như không có niềm tin đối với chính mình, thì khó chứng quả vị. Ở đời, người không có niềm tin rất nhiều, nhưng họ chẳng phải là người xấu mà là người tốt.

Khi tôi mới học Phật, có người đồng sự của bạn tôi, là thư ký của lớp chúng tôi, chúng tôi thường qua lại. Lúc chúng tôi học Phật, vợ của anh ta không dám đến chùa, không dám vào trong chính điện. Tôi hỏi cô ấy vì sao vậy? Cô ấy nói bản thân mình tạo nghiệp quá nặng, không dám gặp chư Phật, Bồ tát. Cô ấy là người tốt đấy, chẳng phải là người xấu đâu, biết được bản thân mình khởi tâm động niệm, hành vi bất thiện, chẳng phải không có lương tâm, biết mình không dám. Điều này đối với pháp môn Tịnh độ, thì rất khó trong một đời đạt được lợi ích. Nghe thấy có thể tin, có thể lý giải, thì chính là bậc thượng căn mà trước đây chúng ta nói, chẳng phải là hạ căn đâu.

Trong kinh Di Đà nói: “Bất khả dĩ thiểu thiện căn phúc đức nhân duyên đắc sinh bỉ quốc” (Không thể dùng một ít thiện căn phúc đức nhân duyên mà được sinh sang nước Cực Lạc). Có thể tin, có thể lý giải, có thể phát nguyện, có thể làm theo, đây chính là bậc thượng căn. Ở đây nói Chuyên tiếp thượng căn, là chỉ cho những người này.

Ở đây, hiển thị điều gì? Hiển thị Tính đức. Trong tự tính có đầy đủ trí tuệ đức năng là không thể nghĩ bàn. Vũ trụ vạn pháp là tự tính sở hiện sở sinh, tự tính năng sinh năng hiện, vạn đức vạn năng, chẳng hề nói việc này nó làm không được. Trong kinh không hề nói như vậy.

Đức Phật không độ người vô duyên. Vô duyên nghĩa là họ không tiếp nhận, họ không thể y giáo phụng hành. Nếu họ tiếp nhận, nếu họ y giáo phụng hành, thì chẳng có người nào là không được độ. Trước đây, chúng ta có học đến Ngũ nghịch, Thập ác, khi lâm chung một niệm đến mười niệm đều được vãng sinh. Ngữ khí kiên định như thế, khiến chúng ta thấy rồi không còn chút nghi ngờ nào nữa. Đó là Tính đức khởi dụng.

Vì thế, chúng ta nhất định phải biết, 6 từ hồng danh chứa trọn đầy đủ các đức. Vì sao vậy? Vì vượt tình lìa kiến. Phàm phu hữu tình lục đạo chấp, Tứ thánh pháp giới không lìa kiến. “Vượt tình lìa kiến”, nghĩa là siêu việt mười pháp giới; siêu tình là siêu việt lục đạo; siêu kiến là siêu việt Tứ thánh pháp giới, cho nên toàn thể, thể là tự tính.

Sự lý vô ngại, sự sự vô ngại, thế mới gọi là Nhất chân pháp giới. Các vị nên biết rằng, nhất nghĩa là chân, nhị là vọng chẳng phải là chân, cho nên trong kinh điển Đại thừa đức Phật nói rất nhiều, khởi tâm động niệm là vọng. Vì sao vậy? Vì khởi tâm động niệm là hai. Vừa động là hai rồi. Đạo giáo cũng nói như vậy, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật. Cái này nói rất có vị đấy. Nhất là gì không nói rõ ràng, chỉ nói nhất. Nhị là gì cũng không nói rõ ràng, chỉ nói nhị sinh tam, tam sinh vạn vật.

Chúng ta đã học Hoa Nghiêm, đã học Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán, rất rõ ràng, nhất là gì? Nhất là Thể tự tính thanh tịnh viên minh. Nhị là gì? Nhị là Y chính trang nghiêm. Tam là gì? Tam là chỉ ba biến, cũng có thể nói, tam là ba tế tướng của A Lại Da, thật sự ba thứ này sinh vạn vật. Những thánh triết của Đạo giáo này, đã khơi dậy cho chúng ta điểm khởi đầu, nhưng không nói kỹ.

Đạo Phật thì nói rất rõ ràng, hiển nhất thể là nhất, khởi nhị dụng là nhị, thị tam biến là tam. Ba thứ sinh vạn pháp. Tam biến trong Hoàn Nguyên Quán nói, bất luận là hiện tượng vật chất hay hiện tượng tinh thần, đều có đầy đủ ba loại châu biến. Thứ nhất là châu biến pháp giới. Thứ hai là xuất sinh vô tận, biến hóa vô cùng, năng sinh vạn pháp. Thứ ba là hàm dung không-có, đó là trong Hoàn Nguyên Quán nói.

Y theo Đại thừa giáo nói, nhất là tự tính, cũng gọi là pháp tính, nhị là nhất niệm bất giác mà có vô minh. Vô minh ở đây là gì? Là A Lại Da thức. Quý vị xem, Nhất chân nhất vọng, là nhị rồi. Nhất là chân tâm, nhị là vọng tâm. Vọng tâm xuất hiện rồi. Trong vọng tâm có ba đặc tính, ba hiện tượng, Nghiệp tướng, Chuyển tướng, Cảnh giới tướng đồng thời hiện ra. Các nhà khoa học nói là năng lượng, tin tức, vật chất, nó có thể sinh vạn pháp. Năng lượng là Nghiệp tướng của A Lại Da, cũng chính là chấn động mà khoa học ngày nay nói. Chuyển tướng là tin tức. Cảnh giới tướng là vật chất. Từ đây mà sinh khởi ra. Đây là nói về vũ trụ vạn pháp, nhân sinh là nói chính mình từ đâu mà có, đã nói rất rõ ràng minh bạch, vũ trụ từ đâu mà có.

Vạn sự vạn vật trong vũ trụ, vì sao lại có biến hóa? Những biến hóa này đều là Chuyển tướng, gọi là Kiến phần, nó khởi tác dụng. Ba loại châu biến trong Hoàn Nguyên Quán, đây là loại thứ hai, xuất sinh vô tận. Câu này có nghĩa là biến đổi vô cùng. Vì sao nó biến? Bởi vì hữu tình chúng sinh có phân biệt, có chấp trước, cho nên tất cả tướng cảnh giới, cũng theo tâm niệm đó mà chuyển biến. Cái lý là như vậy.

Tâm niệm thanh tịnh, thì biến thành Tịnh độ. Tâm niệm không thanh tịnh, thì biến thành uế đô. Tâm niệm thiện, biến cảnh giới thiện. Đó là ba đường thiện. Tâm niệm bất thiện hiện ba đường ác, thiên biến vạn hóa. Đức Phật dạy chúng ta đừng cho đó là thật, tất cả đều là giả. “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”, không có cái gì là thật cả. Vì thế, chư Phật, Bồ tát sống cùng với lục đạo chúng sinh. Vì sao lại sống cùng?

Vì vốn là cùng nhau mà, chỉ là bản thân quý vị không biết, quý vị bị mê, chứ vốn là sống cùng nhau mà. Sống cùng nhau, nhưng chúng ta ở uế độ, các Ngài ở Tịnh độ. Vì sao vậy? Kỳ thật giáo lý Đại thừa chúng ta thường đọc, đọc cái gì đây? Trong cuộc sống quý vị đã lãng quên mất, không dùng đến. Đó là tâm tịnh tắc Phật độ tịnh. Các Ngài giác ngộ rồi, tâm thanh tịnh, cho nên mặc dù sống cùng chúng ta, nhưng các Ngài vẫn ở Tịnh độ, còn chúng ta thì sao?

Tâm chúng ta bị nhiễm, nên ở uế độ. Tâm chúng ta thiện, thì ở cõi Trời. Tâm bất thiện, thì ở tam đồ. Mười pháp giới Y chính trang nghiêm, không rời một niệm ngay đây, đó hoàn toàn là những lời nói chân thật. Quý vị xem cảnh giới nào chẳng phải là cảnh giới Hoa Nghiêm! Quý vị không tìm thấy chỗ nào ở ngoài Hoa Nghiêm đâu, tìm không thấy. Nói cách khác, cứu cánh viên mãn chính là cảnh giới Hoa Nghiêm. Vô Lượng Thọ chính là nòng cốt của cảnh giới Hoa Nghiêm, viên mãn thù thắng không gì sánh bằng, lý sự vô ngại, sự sự vô ngại. Vì thế, nhất chính là chân. Khởi lên một niệm chính là vọng, Nhất chân không còn nữa. Ai thấy được Nhất chân? Ai sống ở Nhất chân? Bồ tát Sơ Trụ của Viên Giáo, Sơ Địa trở lên của Biệt Giáo, thật ra là trùng điệp với chúng ta, chứ không hề tách rời.

Do vậy, không phải suy lường phân biệt mà có thể biết được. Suy tư là thức thứ 6 phân biệt, lường là thức thứ 7 chấp trước. Chúng ta dùng thức thứ 6, dùng thức thứ 7, cũng có nghĩa là dùng chấp trước, dùng tâm phân biệt, thì chắc chắn quý vị không thể hiểu rõ được chân tướng. Vì thế, trong pháp Đại thừa dạy người học Phật, ly tâm ý thức mà tham cứu, ở thế gian thì gọi là nghiên cứu. Khi không hiểu rõ thì phải nghiên cứu kỹ. Nghiên cứu không tách rời tâm ý thức, vẫn còn dùng nó, còn Phật pháp? Phật pháp không dùng tâm ý thức. Vì sao vậy? Vì tâm ý thức là vọng tâm. Tâm ý thức chính là A Lại Da. Tâm là thức A Lại Da. ý là thức Mạt Na. Thức là thức thứ 6.

Do đó, tâm ý thức là A Lại Da, là vọng tâm chẳng phải chân tâm, không dùng A Lại Da. Không dùng A Lại Da, A Lại Da sẽ biến thành Đại viên cảnh trí. Không dùng Mạt Na, Mạt Na sẽ biến thành Bình đẳng tính trí. Không dùng ý thức, ý thức là phân biệt. Không phân biệt, không dùng nó, thì ý thức sẽ biến thành Diệu quan sát trí, chuyển 8 thức thành 4 trí. Trong kinh Hoa Nghiêm, quý vị chính là Bồ tát Sơ Trụ của Viên Giáo, là Bồ tát Sơ Địa của Biệt Giáo, quý vị thoát ly được Thập pháp giới, quý vị trụ ở Nhất chân pháp giới. Nhất chân pháp giới cùng Mười pháp giới đồng thời đồng xứ.

Điều này rất thần kỳ. Đồng thời đồng xứ, không cùng tần số không gian. Nếu như phá vỡ được tần số, thì quý vị sẽ thấy được đồng thời đồng xứ. Thế giới Tây Phương Cực Lạc không có tần số, cho nên Bốn cõi (độ), ba hạng (tam bối) chín phẩm (Cửu phẩm) đều ở một chỗ, không hề có chút chướng ngại. Thế giới đó là sự lý vô ngại, sự sự vô ngại, gọi là Nhất chân.

Do đó, không thể suy lường, vượt ngoài văn tự ngữ ngôn, không phải do tự sức mình trong 9 pháp giới hiểu được, duy chỉ có chứng mới biết được.

Chúng sinh trong 9 pháp giới, làm cách nào để có thể tín hiểu được? Phải nhờ vào Phật lực gia trì. Chư Phật, Bồ tát đã nói cho chúng ta biết sự việc này, hơn nữa còn nói rất kỹ. Chúng ta thật sự hiểu, hiểu rõ ràng, tin tưởng, không nghi hoặc, gọi là khai ngộ. Chẳng phải cảnh giới bản thân mình chứng được, mà chư Phật, Bồ tát nói cho chúng ta biết, chúng ta thật sự hiểu được.

Hành nhân, nhược năng ư thử vô thượng thậm thâm vi diệu chi pháp, sảo sinh tín giải, kỳ nhân tất thị thượng căn (Hành giả nếu có thể thường sinh tin, hiểu pháp vi diệu vô thượng rất sâu này, người đó chắc chắn là hàng thượng căn).

Chúng ta tin pháp này là pháp nhĩ như thị, chẳng phải do ai sáng tạo ra, chẳng phải do ai phát minh ra, nó vốn là như vậy. Tự tính mà. Tự tính có thể, tướng, dụng. Đại Phương Quảng trong kinh Hoa Nghiêm nói, Đại là hình dung về thể của nó, Phương là tướng, Quảng là nói về dụng, tự tính cũng có thể, tướng, dụng. Thể của thể, tướng, dụng, này rất vi diệu, chỉ có chứng mới biết được.

Tướng của thể, tướng, dụng; dụng của thể, tướng, dụng, chúng ta từ chỗ thân cận Phật, Bồ tát, tiếp nhận sự dạy dỗ của chư Phật, Bồ tát. Chúng ta có chút tín giải, sinh khởi lên một chút xíu tín giải, nhưng tín giải chẳng phải là viên mãn.

Một chút xíu tín giải này, gặp được pháp môn Tịnh độ, có thể thật sự phát tâm vãng sinh Tịnh độ, thân cận Phật A Di Đa. Y giáo phụng hành, chấp trì danh hiệu, thì nguyện vọng này nhất định sẽ thành tựu. Đó chính là bậc thượng căn. Vì sao vậy? Vì một đời thành Phật. Đó chính là Di Đà Nhất thừa nguyện hải. Người có một chút tín giải đều có thể vào Biển nguyện Nhất thừa của Phật Di Đa. Điều này có hay không? Là “Chuyên tiếp thượng căn”. Thượng căn ở đây được giải thích như vậy. Nếu chúng ta bình tĩnh, khách quan để xem xét việc này, đối với niệm Phật cầu sinh Tịnh độ của Tịnh Tông, thật sự không còn một chút hoài nghi nào, hoàn toàn khẳng định tiếp nhận, nhưng người y giáo phụng hành không nhiều, thật sự không nhiều. Điều này nói với ai đây? Đối với người học Tịnh Tông mà nói.

Người học Tịnh độ bình thường, họ có thật tâm không? Họ không thật tâm. Họ thật sự hiểu không? Không có. Tín tâm của họ như là giọt sương, hoặc có hoặc không, có khi có, có khi chẳng có. Điều đó nói lên rằng cái tâm này là động. Tâm niệm sát na, sát na chuyển biến. Chuyển biến quá nhanh, tốc độ chuyển biến của nó, chúng ta không thể tưởng tượng được.

Bồ tát Di Lặc nói cho chúng ta biết, một khảy móng tay có ba mươi hai ức bách thiên niệm, chúng ta tính ra là ba trăm hai mươi triệu. Một khảy móng tay có ba trăm hai mươi triệu niệm, quý vị xem tốc độ này có nhanh không. Vì thế, từ chỗ chấn động này, ngày nay các nhà khoa học cho chúng ta biết, họ nói rất cụ thể, mười pháp giới Y chính trang nghiêm, chủng chủng sắc tướng bất tương đồng, nguyên nhân là tần số chấn động không giống nhau.

Tần số chấn động chậm, thì biến thành hiện tượng vật chất. Trong hiện tượng vật chất, những vật cứng như cát, đá, ngày nay chúng ta nói biến thành cố thể. Tần số chấn động nhanh hơn một chút, thì biến thành cây cối, hoa cỏ, biến thành động vật. Nó cũng là vật chất, nhưng mềm mại hơn một chút. Động tác nhanh hơn một chút nữa, thì biến thành hiện tượng tự nhiên. Đây là vì tần số không giống nhau. Đó là chúng ta lấy ví dụ trước mắt mà nói, nhưng trên thực tế nó bao gồm mười pháp giới Y chính trang nghiêm. Điều này, chúng ta hiểu, rõ ràng minh bạch, có khoa học chứng minh. Vì thế, pháp môn này, Di Đà Như Lai chuyên tiếp thượng căn, một đời thành tựu viên mãn.

“Đồng thời, Như Lai từ trong trí tuệ chân thật, khai diễn pháp môn này muốn ban cho chúng sinh”. Như Lai chính là Phật A Di Đà. Ngài từ trong trí tuệ chân thật. Chân thật tuệ ở đây là trí tuệ Bát nhã nơi tự tính vốn sẵn có, không phải có từ bên ngoài. Trí tuệ ở đây là trí tuệ Bát nhã tự tính vốn sẵn có, chính là nguồn gốc của hiện tượng tinh thần. Nó khởi lên hai tác dụng, thứ nhất là tác dụng về hiện tượng vật chất, thứ hai là tác dụng về hiện tượng tinh thần.

Hiện tượng tinh thần là từ trong trí tuệ chân thật, từ nguồn gốc này phát sinh ra. Hiện tượng vật chất là từ đức tướng mà sinh ra. Trí tuệ, đức tướng đều có sẵn trong tự tính, cho nên đức tướng trong tự tính biến thành hiện tượng vật chất, trí tuệ trong tự tính biến thành hiện tượng tinh thần. Trong đạo Phật, hiện tượng vật chất gọi là sắc pháp, hiện tượng tinh thần gọi là tâm pháp. Thông thường, tâm pháp trong tự tính là kiến, văn, giác, tri; trong A Lại Da thì gọi là Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Thọ, Tưởng, Hành, Thức từ đâu mà có? Từ kiến, văn, giác, tri mà có.

Từ trong chân thật tuệ, khai diễn ra pháp môn này, pháp môn Tịnh độ, thế giới vật chất của Tịnh đô. Quý vị đều biết là thế giới vật chất, nhưng mà vật chất nơi đó, khác với vật chất của chúng ta ở đây. Nó thù thắng hơn vật chất của chúng ta. Thù thắng chỗ nào? Trong hiện tượng vật chất của họ, hiện tượng tinh thần đặc biệt minh hiển.

Hiện tượng vật chất của thế giới chúng ta đây, trong hiện tượng vật chất có hiện tượng tinh thần, nó đần độn hơn chứ chẳng phải là không có. Quý vị không dễ dàng phát hiện nó có, nó ở đó khởi tác dụng. Nó khởi tác dụng mà quý vị không biết. Kỳ thật Y chính trang nghiêm của mười pháp giới, với thế giới Tây Phương Cực Lạc, với thế giới Hoa Tạng, không hề sai biệt chút nào. Vì sao vậy? Vì cảnh tùy tâm chuyển. Người sống trên địa cầu chúng ta đây ngu si, cho nên hiện tượng vật chất cũng ngu si. Con người ngu si, nó cũng ngu si. Cư dân ở thế giới Tây Phương Cực Lạc, họ giác ngộ rồi, cho nên hiện tượng vật chất ở thế giới Tây Phương Cực Lạc nó cũng giác ngô. Cái lý là như vậy. Thật sự cảnh tùy tâm chuyển, không sai chút nào.

Quý vị xem hiện tượng vật chất ở nơi đó có thể nói pháp, biểu hiện pháp vô cùng rõ ràng. Vật chất của thế giới chúng ta đây cũng biểu hiện pháp, nhưng người nào mới thấy được? Người tâm địa thanh tịnh, người quan sát tinh nhuệ mới thấy được, giống như thế giới Cực Lạc không khác. Phàm phu chúng ta phiền não tập khí rất nặng, mê mất tự tính lâu ngày, không thể thấy được.

Những đạo lý này nếu chúng ta nắm vững, thì đối với sự tu học của chúng ta hiện nay có lợi ích lớn, giúp cho quý vị khai ngộ, thời thời khắc khắc đều có tiểu ngộ, đều có chỗ ngộ. Tích tiểu ngộ thành đại ngộ. Tích đại ngộ thành đại triệt đại ngộ. Vì vậy, con người chẳng thể không để tâm vào đạo. Thế nào là đạo?

Trong Phật giáo Đại thừa, đạo chính là Chân Thành, Thanh Tịnh, Bình Đẳng, Chính Giác, Từ Bi. Ở trong pháp thế gian, thì đạo chính là Hiếu Đễ ,Trung Tín, Lễ Nghĩa, Liêm Sỉ, Nhân Ái, Hòa Bình. Chúng ta lấy lời dạy của cổ thánh tiên hiền, dùng 12 từ này để thay thế toàn bộ. Chúng ta khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác cũng không tách rời 12 từ này, đều có thể tương ưng với 12 từ này. Như thế thì gọi quý vị là hành đạo. Quý vị hành trong đạo. Quý vị không ra khỏi quỹ đạo, tương lai chắc chắn quý vị có thể chứng đạo. 12 từ này là Tính đức, ở trong tự tính vốn sẵn có.

Chư Phật, Bồ tát ứng hóa trong 9 pháp giới, khai diễn pháp môn này, cho nên câu cuối cùng là niệm Phật. Niệm Phật ở đây rất quan trọng. Duy có tín nguyện trì danh, quý vị mới có thể quay về Tính đức. Thế giới Cực Lạc là do Tính đức thành tựu. Thế giới Cực Lạc là đại viên mãn của Tính đức, quý vị nghĩ xem có quan trọng không.

Chúng ta không dùng đạo lý này, mà lại dùng phương pháp khác để chứng đắc, thì rất khó. Vì sao vậy? Vì phải đoạn tập khí phiền não.

Pháp môn này cho chúng ta biết, không cần đoạn tập khí phiền não mà có thể thành tựu, được bản nguyện oai thần của Phật A Di Đà gia hộ. Quý vị có thể sinh về Tịnh độ, vì “Di Đà dục huệ chúng sinh chân thật chi lợi” (Di Đà muốn ban cho chúng sinh lợi ích chân thật).

“Cố thử pháp môn tất phương tiện cứu cánh, phổ bị tam căn, phổ linh hiện tại đương lai hết thảy phàm ngu, trược ác chúng sinh tất chứng bỉ ngạn. Cố thử thậm thâm chi pháp, phục hựu bàng cập trung hạ dã” (Pháp môn này chắc chắn là phương tiện cứu cánh, gia bị khắp ba căn, rộng khiến cho hết thảy phàm ngu hiện tại, đương lai, chúng sinh ác trược thảy đều lên bờ giác ngộ. Vì vậy, pháp rất sâu lại còn giúp cho hạng trung, hạ căn nữa).

Pháp môn Di Đà này, chắc chắn là phương tiện cứu cánh, phương tiện đến cùng rồi, không có pháp môn nào phương tiện hơn pháp môn này nữa, có thể gia bị khắp cho tất cả căn tính của chúng sinh. Ba căn là thượng, trung, hạ, tất cả chúng sinh không đồng căn tính, gặp được pháp môn này đều có thể được lợi ích, hơn nữa đều có thể một đời được thành tựu. Bậc hạ hạ căn cũng có thể một đời thành tựu. Điều này thật đáng nể! Hạ hạ căn chính là Ngũ nghịch, Thập ác, khi lâm chung gặp được bậc thiện tri thức, khuyên người đó học pháp môn này, nhưng người đó phải tin tưởng, lập tức quay đầu, phát nguyện vãng sinh, một niệm mười niệm đều được vãng sinh, sinh về thế giới Tây Phương Cực Lạc, Phàm Thánh Đồng Cư Độ hạ hạ phẩm.

Chúng ta biết, hạ hạ phẩm cũng là Bồ tát A Duy Việt Trí. Thật sự không thể nghĩ bàn, quả thật là hạ hạ phẩm. Nhưng mà ở thế giới Tây Phương Cực Lạc, người này biểu hiện thần thông đạo lực, giống như Bồ tát A Duy Việt Trí không khác. Điều này không phải người đó tu được, mà là sự gia trì của Phật A Di Đà. Vì thế, vị này có năng lực giống như các vị Bồ tát khác vậy, ứng hóa trong mười pháp giới giáo hóa chúng sinh. Người đó có năng lực này. Nếu không phải là pháp môn Tịnh độ, thì người này đến khi nào mới có thể, quay về lục đạo trong mười pháp giới để giúp cho mọi người đây? Người này nhất định phải buông bỏ hết vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, cũng có nghĩa là phải chứng được địa vị Sơ Trụ của Viên Giáo mới được.

Nếu như chúng ta miễn cưỡng hạ thấp tiêu chuẩn này xuống, hạ đến thấp nhất thì cũng chứng được quả A La Hán. Đoạn hết Kiến Tư phiền não, siêu việt lục đạo luân hồi, quay trở lại lục đạo, có thể giúp cho lục đạo chúng sinh, người này không còn mê hoặc nữa. Trong ba loại bất thoái, người này chứng được Vị Bất Thoái. Chư Phật, Bồ tát lấy oai thần gia hộ cho người này, giúp cho người này đạt được Hành Bất Thoái. Niệm Bất Thoái vẫn chưa được, vì người này chưa đạt được.

Đây là người có tâm từ bi rất lớn, bản thân chưa được thành tựu lớn, có chút thành tựu nhỏ này, bèn mong chóng đi giúp cho người khác. Hạng người này rất đáng quý trọng. Nếu chúng ta hiểu rõ được chân tướng sự thật, quý vị mới thật sự biết được điều không thể nghĩ bàn của pháp môn Tịnh độ, quá thù thắng! Chúng ta học Tịnh độ, học Tịnh độ chính là học Phật A Di Đà, bắt buộc phải có hoằng nguyện của Phật A Di Đà. Lấy tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, nguyện tất cả chúng sinh đều đăng bỉ ngạn. Bỉ ngạn ở đây là Đại Bát Niết Bàn, nghĩa là cứu cánh thành Phật.

Bản nguyện của Di Đà, nếu như chúng ta không có bản nguyện này, thì không thể tương ưng với Phật A Di Đà. Vì vậy, Đại sư Ngẫu Ích nói rất hay: Có thể được vãng sinh hay không, quyết định ở chỗ có tín nguyện hay không. Nếu tâm lượng của quý vị rất nhỏ, chỉ lo cho mình không nghĩ tới người khác, thì điều này không tương ưng với nguyện của Phật A Di Đà.

Quý vị phát nguyện cầu sinh Tịnh độ, vãng sinh được không? Không thể được. Nguyên nhân vì đâu vậy? Vì quý vị và nguyện của Phật A Di Đà tính chất không giống nhau. Phật A Di Đà là vì phổ độ chúng sinh, biến pháp giới hư không giới, không bỏ một chúng sinh nào, còn quý vị là vì bản thân, không hề nghĩ đến người khác. Quý vị cũng phát nguyện cầu sinh Tịnh độ, tính chất của nguyện không giống nhau, nên không thể đi được. Đạo lý này chẳng thể không biết.

Do đó, cổ thánh tiên hiền xem bộ kinh này và kinh Hoa Nghiêm là ngang nhau, nói kinh Vô Lượng Thọ chính là trung bản Hoa Nghiêm. Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, chính là đại bản kinh Vô Lượng Thọ, chẳng phải là ý này sao? Vì thế, tâm lượng không lớn, thì làm sao được! Ở bản kinh này, quý vị xem 48 chương của Hạ Liên Công phân ra, cũng gọi là 48 phẩm, phẩm Đức Tôn Phổ Hiền thứ hai, quá rõ ràng.

Trong kinh văn nói: “Hàm cộng tôn tu Phổ Hiền Đại sĩ chi đức” (Đều cùng tôn kính tu theo đức của Phổ Hiền Đại sĩ). Đức của Phổ Hiền Đại sĩ chính là mười đại nguyện vương. Cảnh giới của mỗi nguyện, đều là biến pháp giới, hư không giới, cho nên gọi là đại nguyện. Chẳng phải đối với người nào, hay đối với địa phương nào, không phải như vậy, đối tượng của Ngài là biến pháp giới hư không giới.

Chúng ta không có nguyện lớn như vậy, nên không thể tương ưng với Phật A Di Đà, cho nên Đại sư Ngẫu Ích nói cho chúng ta biết điều kiện vãng sinh: Được vãng sinh hay không là ở chỗ có tín nguyện hay không. Phẩm vị cao thấp là ở chỗ công phu niệm Phật sâu hay cạn.

Bây giờ, chúng ta biết được, vãng sinh là chuyện đại sự, phẩm vị cao thấp không quan trọng, đến nơi đó thân cận Phật A Di Đà, tâm hướng thượng tốc độ rất nhanh. Nếu như bản thân có thể dũng mãnh tinh tiến, thì tốc độ rất nhanh. Vì thế, Bồ tát mười phương, chẳng có vị nào không hướng về thế giới Cực Lạc. Nguyên nhân gì vậy? Chính là tốc độ nâng cao cảnh giới tu tập rất nhanh. Bậc thượng căn chúng ta không hoài nghi, còn bậc hạ căn, hạ hạ căn, người rất ngu si cũng không thể xem thường. Vì sao vậy? Vì họ có duyên nghe được pháp môn này, thấy được kinh điển của Tịnh Tông, thấy được hình tượng chư Phật, Bồ tát, chắc chắn là người nhiều đời nhiều kiếp học Phật. Vì sao đời này lại như vậy? Vì tình chấp, phiền não quá nặng, mê mất rồi, mê quá sâu dày.

Tình chấp quá nặng, cho nên suốt cuộc đời không gặp được Phật duyên, đến khi lâm chung mới gặp được. Tuy vậy, không muộn, đưa hết chủng tử về quá khứ trong A Lại Da thức ra, tốc độ này quá nhanh. Trong khoảng sát na chủng tử trong A Lại Da thức đã ra rồi, cuối cùng thời gian rất ngắn, người này tiếp nhận, tin tưởng và phát nguyện, người này thật sự được Phật đến tiếp dẫn để vãng sinh. Ở đây nói về thiện căn đời trước, phúc đức nhân duyên không thể nghĩ bàn. Điều này phàm phu chúng ta không biết được.

Tiếp: “Chí ư vị thử vi chuyên tiếp phàm phu giả, cái hiển Như Lai chi Đại từ Đại bi, Thế Tôn mẫn niệm mạt thế phàm ngu, chướng thâm khổ trọng, nãi phát vô thượng hoằng thâm đại nguyện, cố hiệu nguyện vương” (Đến đây là vì chuyên tiếp phàm phu, bởi vì hiển bày tâm đại từ, đại bi của Như Lai. Đức Thế Tôn thương xót phàm phu đời Mạt pháp, chường sâu khổ nặng, mới phát đại nguyện rộng sâu vô thượng, cho nên gọi là Nguyện vương). Ở đây, vì chúng ta mà nói lên việc chuyên tiếp phàm phu. Mục đích là khiến cho những phàm phu ngu si chúng ta đây, có thể thật sự sinh khởi tín tâm, không còn cảm giác tự ti, không còn cảm giác tội ác.

Cảm giác tự ti và cảm giác tội ác đều làm chướng ngại cho việc niệm Phật vãng sinh của chúng ta. Chướng ngại này bắt buộc phải hóa giải nó, thì trong việc tu học đời này của chúng ta mới thuận lợi thông qua, quyết định vãng sinh, điều này rất quan trọng.

Đoạn này, hiển thị tâm đại từ đại bi của Như Lai, Như Lai ở đây là Phật A Di Đà. Thế Tôn ở đoạn sau là chỉ cho đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Di Đà từ bi, vô duyên đại từ, không có điều kiện, đồng thể đại bi. ý nghĩa của chúng sinh duyên từ ở đây phải biết, hiện tượng chúng duyên hòa hợp mà sinh khởi, gọi là chúng sinh. Vì thế, phạm vi của chúng sinh rất lớn, bao gồm những thứ mà ngày nay chúng ta nói, như động vật, thực vật, khoáng vật và hiện tượng tự nhiên. Ban đêm, chúng ta nhìn lên trên bầu trời, vô lượng vô biên những thế giới này. Thế giới tinh cầu, đều là do chúng duyên hòa hợp mà sinh khởi, tất cả đều là chúng sinh.

Chư Phật Như Lai các Ngài đã minh tâm kiến tính, biết được tất cả chúng sinh, đều do tự tính biến hiện mà có. Tự tính năng sinh năng hiện, tất cả chúng sinh đều là sở sinh sở hiện, cho nên chúng sinh và Phật là một thể. Chúng sinh mê lầm không thừa nhận tự tính, chư Phật giác ngộ tâm tính rồi nên biết được. Ngài khẳng định tất cả chúng sinh là chính mình, cho nên gọi là pháp thân. Pháp là gì? Pháp là vạn pháp. Vạn pháp chính là thân ta, thân ta chính là vạn pháp, gọi là pháp thân. Pháp thân bất diệt. Thân này của tôi có sinh diệt, còn pháp thân bất diệt, bất sinh bất diệt. Pháp thân mới là chân thân của chính mình. Thân này của tôi là một tế bào nhỏ trong pháp thân. Kỳ thật, tế bào này cũng là bất diệt. Các nhà khoa học đã chứng minh từ lâu rằng, tinh thần bất diệt, vật chất bất diệt.

Trong Hoàn Nguyên Quán đưa ra một ví dụ rất hay, đưa ra một vi trần, một vi trần trong Y báo, một vi trần châu biến pháp giới. Mỗi vi trần châu biến pháp giới, một vi trần xuất sinh vô tận. Mỗi vi trần xuất sinh vô tận, một vi trần hàm dung không-có. Mỗi vi trần hàm dung không-có.

Quý vị nghĩ xem đó là cảnh giới gì? Những lời dạy ở trong bộ kinh lớn đó, trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, thường mang ra tác quán như thị, trở thành quán tưởng của chúng ta, trở thành quan niệm của chúng ta, vô tình chúng ta đã thâm nhập vào đó. Vì vậy, người biết tu tập, thì quan niệm của họ, hoàn toàn đều là quan niệm mà trong kinh nói. Kinh điển là Phật tri Phật kiến. Cái gọi là Phật tri Phật kiến, chính là trí tuệ kiến giải mà tự tính sẵn có, là tự tính. Chúng ta trở về tự tính, những phàm phu phiền não tập khí sâu dày này, không có năng lực đại triệt đại ngộ, thì dùng phương pháp này rất là vi diệu. Hiển thị tâm từ bi vô tận của Như Lai tiếp dẫn chúng sinh, vô lượng vô biên thiện xảo phương tiện, giúp chúng ta những người chướng sâu khổ nặng.

Mạt thế nghĩa là thời kỳ Mạt pháp, đến đây giúp chúng ta, Ngài phát đại nguyện vô thượng rộng sâu. Đại nguyện ở đây chính là 48 nguyện, gọi là nguyện vương, vua trong các nguyện. Quá khứ, hiện tại, vị lai, chư Phật, Bồ tát trong biến pháp giới hư không giới, vì chúng sinh mà phát vô tận đại nguyện, quy nạp lại cũng không ngoài 48 nguyện. 48 nguyện quy nạp lại nữa thành Tứ hoằng thệ nguyện. Tứ hoằng thệ nguyện nói rộng ra chính là 48 nguyện. Tứ hoằng thệ nguyện quý vị đều biết, thứ nhất là chúng sinh vô biên thệ nguyện độ, thứ hai là phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, thứ ba là pháp môn vô lượng thệ nguyện học. Câu cuối cùng, Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

Phật Di Đà và Phật Thích Ca giúp cho tất cả chúng sinh, trong một đời có thể đầy đủ 4 đại nguyện này. Các Ngài đã làm rồi, vấn đề ở chỗ chúng ta có thể hành hay không? Có tin tưởng không? Chỉ cần có một chút xíu hoài nghi bèn biến thành chướng ngại, cho nên đức Phật đã đặt nghi ở trong căn bản phiền não. Căn bản phiền não có 6 cái: tham, sân, si, mạn, nghi, và cái cuối cùng là ác kiến.

Ác kiến là gì? Ác kiến là 5 loại kiến hoặc. Trong ác kiến có 5 loại, hợp lại thì gọi là Kiến Tư phiền não. Kiến ở đây chính là ác kiến. Nghi ở đây không phải là nghi hoặc bình thường, mà là sự hoài nghi đối với lời dạy của chư Phật, Bồ tát. Quý vị nghi ngờ, thì không có tin tưởng. Quý vị không có tín, thì làm gì có nguyện, uổng một đời này rồi! Vì vậy, sự nghi ngờ này, quý vị đã biết được sự tác hại của nó như thế nào rồi, nhất định không được nghi ngờ, phải hoàn toàn khẳng định, phải tin tưởng “chân ngữ” trong ngũ ngữ của Như Lai mà kinh Kim Cương đã nói. Lời nói của đức Phật là lời chân thật, rất chân thật, không hề lường gạt người. “Như ngữ”, hai từ chân ngữ này nói rất hay, hoàn toàn giống như chân tướng sự thật vậy, không thêm chút nào, cũng không bớt chút nào, gọi là như ngữ. Những lời nói ra đều là chân tướng sự thật, thật tướng của các pháp.

Chư Phật, Bồ tát lường gạt chúng ta, dựa vào đâu? Chư Phật, Bồ tát chẳng những phá bốn tướng, mà bốn kiến: vô ngã kiến, vô nhân kiến, vô chúng sinh kiến, vô thọ giả kiến cũng phá luôn. Vì sao Ngài phải vọng ngữ? Ngài không cầu điều gì ở chúng ta. Vì sao phải gạt chúng ta? Không cầu điều gì mà gạt người, chắc chỉ có người mắc bệnh thần kinh thôi.

Quý vị xem chư Phật, Bồ tát có giống người bị bệnh thần kinh không? Không giống mà. Chúng ta có thể không tin tưởng Ngài được sao? Không tin tưởng Ngài, Ngài chẳng mất gì, mà chính bản thân chúng ta chịu thiệt. Một người có tấm lòng tốt như thế đến đối xử với chúng ta, chúng ta còn trách Ngài, còn hiểu lầm Ngài, còn hiểu sai Ngài. Quý vị nghĩ xem, tội nghiệp này có sâu nặng hay không? Vì thế, đức Phật đặt ác kiến ở sau tham, sân, si, mạn, nghi.

Đạo Phật nói tam độc tham, sân, si, tôi thường nói ngũ độc. Vậy 2 cái độc kia là gì? Mạn là độc, ngạo mạn; nghi là độc. Bên trong có ngũ độc, bên ngoài có ngũ dục thất tình, quý vị có thể không bị bệnh chăng? Quý vị có thể không tạo nghiệp chăng? Bị bệnh, thì khổ cho tấm thân của quý vị. Tạo nghiệp, thì làm khổ pháp thân tuệ mạng của quý vị.

Chẳng thể không nhận biết rõ ràng! Khi biết rõ ràng, thì sẽ thành tựu thế pháp và Phật pháp. Sự dạy dỗ của cổ thánh tiên hiền, đã thực nghiệm 5.000 năm, thông qua kiểm nghiệm, nói lên đó là thật, chẳng phải là giả. Nguyên lý nguyên tắc dạy học này là gì? Chính là Hiếu đạo và Sư đạo mà cổ nhân đã nói.

Hiếu đạo biểu hiện trong việc kính tổ tông, Sư đạo biểu hiện trong việc tôn sư trọng đạo. Vì sao phải tôn sư? Mục đích của tôn sư là trọng đạo. Sư là thay cho đạo. Một con người có thể thành thánh thành hiền, họ nhờ vào đâu? Chính là nhờ vào hai người, cha mẹ dạy con cái. Nòng cốt dạy con cái của họ là gì? Quan trọng nhất là gì? Tôn trọng thầy giáo, chính là tôn sư trọng đạo. Thầy giáo dạy học trò lý niệm trọng tâm nhất là gì? Là hiếu thảo phụ mẫu.

Hiếu thảo phụ mẫu. Phụ mẫu không dễ nói, tôi là cha mẹ anh, anh phải nên hiếu thảo tôi; người con nói, vì sao tôi phải hiếu thảo với ông chứ. Không dễ nói đâu, để cho người ngoài nói, như thế mà dạy thành công. Thầy giáo cũng không tiện nói rằng, tôi là thầy giáo, anh là học trò, anh phải nên tôn trọng tôi. Điều này thật khó nói, câu này phải để cho cha mẹ nói. Vì thế, hai người này dạy học trò tốt, dạy người tốt, nhất định phải hiểu rõ lý này. Họ biểu diễn. Biểu diễn là vì bọn trẻ.

Ấn tượng của tôi rất sâu sắc, hình như 5-6 tuổi là đi học. Trường học tư thục, tôi ở nhà người thân, ở Từ đường của một người cô. Từ đường đó bây giờ không còn nữa. Khi tôi trở về thăm thì không còn nữa, chỉ là khoảng đất trống. Ngày đầu tiên vào lớp học, cha dẫn tôi đi, có mang theo một chút lễ vật tặng cho thầy giáo. Trong lớp học có hơn 30 học sinh, đã đứng hết trong lễ đường. Lễ đường là đại điện tế tổ tiên, trong đó có cúng một bài vị, Đại Thành Chí Thánh Tiên Sư Khổng Phu Tử Thần Vị. Các bạn học đứng hai bên, thầy giáo đứng ở phía trên. Học sinh mới đến, trước tiên lạy thần vị của Khổng Tử, không có tượng Khổng Tử, lễ thần vị của Khổng Tử tam quỳ chín khấu đầu, theo đại lễ của thời nhà Thanh.

Sau khi lạy Khổng Tử xong, cha tôi mời thầy giáo ngồi lên ghế. Ngồi ở trước bài vị của Khổng Tử, cha tôi dẫn tôi, lễ thầy giáo tam quỳ chín khấu đầu, và dâng lên lễ vật. Biểu diễn như vậy đó, suốt cuộc đời này chúng tôi không thể quên được. Suốt đời đối với người làm công tác giáo dục, tâm tôn trọng đó tự nhiên sinh khởi. Vì thế, một tiết học, sự giáo dục này có quan trọng không khi mỗi học trò vào lớp. Sau này, mỗi khi có học sinh mới đến, chúng tôi được xem như học sinh cũ đứng qua một bên nhìn. Mỗi lần học sinh mới đến, lễ tiết này chúng tôi lại được xem một lần, cho nên rất quen thuộc. Suốt cuộc đời, từ trong nội tâm tôn kính thầy giáo, đối với đạo học quan trọng hơn bất kỳ điều gì khác.

Sau này, tôi đến Đài Loan, bạn thấy tôi thân cận với thầy Phương, thân cận Chương Gia Đại sư, thân cận thầy Lý, hình như rất là hợp ý, nhưng kỳ thật thì sao? Kỳ thật là tôn sư. Trong lòng tôi rất rõ, sự rõ ràng này không phải khi đó, mà cách mười mấy hai chục năm sau tôi mới hiểu. Thầy giáo vốn không quen biết, nhưng khi vừa gặp lại có ấn tượng tốt như vậy, đối xử với tôi tốt như vậy. Đặc biệt là thầy Phương và Chương Gia Đại sư, kêu tôi mỗi chủ nhật đến nhà thầy, đơn độc dạy tôi hai giờ đồng hồ. Chúng tôi nằm mơ cũng không dám nghĩ tới. Nguyên nhân gì vậy? Tôn sư trọng đạo. Đại khái học sinh ở trường ngày nay, đối với thầy giáo không có tâm cung kính giống như chúng tôi ngày xưa.

Ấn Quang Đại sư nói, một phần cung kính được một phần lợi ích, mười phần cung kính được mười phần lợi ích. Nói lên điều gì? Thầy giáo rất muốn dạy quý vị, quý vị có thể tiếp thu được hay không? Từ chỗ nào mà thầy giáo nhìn thấy quý vị có thể tiếp thu? Xem sự thành kính của quý vị. Thật sự một phần thành kính, thì quý vị được một phần, mười phần thành kính, thì quý vị được mười phần. Chúng ta đối với thầy giáo không được mười phần, thì cũng được tám, chín phần, cho nên thầy giáo rất vừa ý. Cuộc đời của thầy giáo chỉ có một mục đích duy nhất là muốn truyền đạo. Có người truyền bá kiến thức của thầy là có người kế nghiệp.

Cổ nhân nói: “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”, nên kiến thức của thầy không có người truyền bá, thì thầy cảm thấy nuối tiếc. Khi thật sự không tìm được người nối nghiệp, thì chỉ viết sách, trước tác. Sau khi trước tác được lưu truyền đi, xem người đời sau, người có duyên, đọc được sách của họ, xem thật sự hiểu, giúp người này thành tựu. Do đó, gặp được người có nhân duyên này, thì thầy sẽ không buông bỏ đâu, chắc chắn thầy giáo sẽ giữ lại. Chúng tôi ở trong môi trường như vậy, không quen biết thầy giáo, không nộp học phí lấy một đồng, đặc biệt mở tiết học dạy cho tôi, không để chúng tôi đến trường học dự thính. Như vậy, cuộc đời tôi có được một chút thành tựu nho nhỏ này, chẳng thể không biết ơn thầy giáo, niệm niệm không quên thầy.

Tôi học, khi lên lớp chia sẻ cùng các bạn học, cảm tưởng học tập của mình, tâm đắc học tập của mình, báo cáo với quý vị. Tôi luôn luôn để hình ảnh của thầy giáo ở trước mặt mình. Tôi phải trình thưa với thầy, không một ngày nào tôi rời xa thầy. Lời dạy của thầy giáo, tôi nhất định tận tâm, tận lực, nỗ lực thực hiện, thực hiện ngay trong cuộc sống, thực hiện trong việc đối nhân xử thế tiếp vật.

Con người một đời được thành tựu, phải nhờ vào cha mẹ, nhờ vào thầy giáo. Vì vậy, người bất hiếu với cha mẹ, ở thế gian này chắc chắn không thể thành tựu được điều gì. Không hiểu được lẽ tôn sư trọng đạo, thì nhất định không học được điều gì, bất luận là thế pháp hay Phật pháp cũng không ngoại lệ.

Người đời nay khinh mạn thầy giáo, cho nên học thuật của thế gian và xuất thế gian đều đoạn hết. Nếu như Thánh học bị đoạn mất, thì xã hội này sẽ biến thành một màn đen tối. Đó chính là triệu chứng của ngày tận thế. Hiện tượng của ngày tận thế, quý vị nghĩ xem có đáng sợ không.

Làm thế nào để cứu nguy cơ này? Không gì khác ngoài việc hiếu thảo cha mẹ, tôn kính sư trưởng, nghiêm chỉnh nỗ lực học tập cổ thánh tiên hiền, cứu bản thân mình, cuộc đời mình. Dù không cầu sinh Tây phương Tịnh độ, thì đời sau cũng ở cõi Trời chứ không ở cõi Người, bởi cõi Người không có phúc báo lớn như vậy. Phúc báo của quý vị, vì chưa đoạn dục vọng nên quý vị ở cõi Trời Dục giới. Nếu như ngũ dục ít, thì quý vị sinh về cõi Trời Sắc giới. Nếu như là niệm Phật gặp được pháp môn Tịnh độ, chắc chắn quý vị sinh về thế giới Cực Lạc, một đời làm Phật. Đây là cứu cánh viên mãn.

Tiếp: “Đại nguyện chi khắc tâm nãi đệ thập bát nguyện”, (Đại nguyện ghi tâm chính là nguyện thứ 18). Nguyên văn của tâm nguyện này toàn bộ được ghi chép: “Văn viết, thập phương chúng sinh, văn ngã danh hiệu, chí tâm tín nhạo, sở hữu thiện căn, tâm tâm hồi hướng, nguyện sinh ngã quốc, nãi chí thập niệm, nhược bất sinh giả, bất thủ chính giác, duy trừ ngũ nghịch, phỉ báng chính pháp” (Văn Kinh ghi: Chúng sinh mười phương nghe danh hiệu Ta chí tâm tin ưa, mọi thiện căn có, tâm tâm hồi hướng nguyện sinh về nước của Ta, cho đến mười niệm, nếu không sinh sang, Ta không giữ lấy quả vị Chính giác, chỉ trừ tội ngũ nghịch phỉ báng chính pháp).

Đây là nguyện văn của nguyện thứ 18. Nguyện này vào đời Tùy Đường đặc biệt được chư vị Tổ sư in ra. Đây là nguyện quan trọng nhất trong 48 nguyện. Tất cả chúng sinh, đảm bảo tất cả chúng sinh một đời thành Phật. Điều này thật đáng nể! Mười phương chúng sinh, chúng ta có trong đó. Chúng ta cũng không ngoại lệ. Mười phương chúng sinh nghe danh hiệu Ta. Ngày nay, chúng ta được danh hiệu Phật A Di Đà. Nghe được danh hiệu này, dưới đây có một điều kiện, là chúng ta có chí tâm tín ưa hay không.

Chí tâm là chân tâm. Tâm cực kỳ chân thành, chúng ta có niềm tin như vậy hay không? Nhạo là yêu chuộng ưa thích. Đối với pháp môn Tịnh độ, đối với Phật A Di Đà, thật sự tin tưởng, thật sự ưa thích. Sở hữu thiện căn, một đời tu tập, đoạn tất cả ác, tu tất cả thiện, đều hồi hướng về thế giới Tây Phương Cực Lạc, làm tư lương cho việc vãng sinh thế giới Tây Phương Cực Lạc của chúng ta.

Nguyện sinh về nước của Ta, là do chính đức Phật A Di Đà nói ra, là thế giới Tây Phương Cực Lạc. Điều này chúng ta cần nên làm. Dưới đây nói “cho đến mười niệm”: một đời không tín ngưỡng tôn giáo, một đời không gặp được Phật pháp, nhưng trước khi lâm chung một, hai ngày, quý vị gặp được bạn tốt, giới thiệu pháp môn này cho quý vị, quý vị vừa nghe là tiếp nhận, thật sự có thể làm được đến chỗ chí tâm tin ưa.

Cuộc đời tôi có gặp được một người như vậy. Lúc trước ở Mỹ, Châu Quảng Đại tiên sinh sống ở Hoa phủ, một đời không tin tôn giáo, bị ung thư. Ung thư giai đoạn cuối, bác sĩ chạy rồi, người trong nhà lo lắng, khắp nơi đi cầu thần lạy Phật. Cũng may chúng tôi ở bên đó có hội Phật giáo. Hội Phật giáo ở Hoa phủ, đến tìm chúng tôi.

Chúng tôi đi với mấy người học trò, thấy ông ấy như vậy thật sự là không được rồi, bèn khuyên ông ấy cầu sinh Tây phương Tịnh độ, giới thiệu sơ qua về Phật A Di Đà và thế giới Cực Lạc cho ông ấy. Người này có thiện căn, vừa nghe là tin nhận liền, nói với mọi người trong nhà, không cần đi kiếm bác sĩ, không cần đi tìm thuốc gì nữa, tất cả mọi người hãy niệm Phật giúp cho ông ta cầu sinh Tịnh độ. Được 3 ngày, thì ông ấy vãng sinh. Thụy tướng vãng sinh rất tốt. Cả nhà đều tin tưởng. Đúng là có sự cảm ứng không thể nghĩ bàn. Đức Phật phát lời nguyện này, một niệm, mười niệm quyết được vãng sinh. Nếu không được vãng sinh, thì không giữ lấy quả Chính giác, Ngài sẽ không thành Phật.

Ngày nay, Tỷ khiêu Pháp Tạng đã thành Phật rồi. 48 nguyện của Ngài, nguyện nào cũng thực hành đầy đủ. Người không thể được vãng sinh, thì dưới đây có một câu: “Chỉ trừ ngũ nghịch, phỉ báng chính pháp”. Đoạn trước chúng ta có đọc qua, trong Quán Kinh, người mắc tội Ngũ nghịch, Thập ác, chỉ cần trước khi lâm chung, nghe được pháp môn này, chí tâm tin ưa nguyện sinh về nước của Ta một niệm, mười niệm, đều được vãng sinh. Đây nói về Ngũ nghịch, cho nên trong câu này, quan trọng nhất là câu cuối cùng, nghĩa là hủy báng chính pháp, thì không có cách nào. Họ không tin mà. Họ không tiếp nhận, thì chẳng có cách nào. Giả như không hủy báng, thật sự sinh khởi tín tâm, nguyện tâm, thì Ngũ nghịch, Thập ác đều được vãng sinh. Đây là chỗ thù thắng không gì sánh bằng của pháp môn Tịnh độ.

Tiếp, Niệm công nói: “Cái dĩ sinh tử phàm phu, mê tâm trục cảnh, trầm luân khổ hải, đầu xuất đầu một, nhược vô thử thập niệm tất sinh chi đại nguyện, chúng sinh hà do đắc xuất luân hồi” (Bởi vì phàm phu sinh tử, mê tâm theo cảnh, trầm luân biển khổ, thoạt nổi thoạt chìm, nếu không nhờ đại nguyện mười niệm nhất định vãng sinh, thì nhờ đâu mà thoát khỏi luân hồi?).

Câu này nói rất đúng. Nếu như không có đại nguyện này của Di Đà, thì sinh tử phàm phu trong lục đạo, thật quá đáng thương! Mê tâm theo cảnh. Hiện tượng xã hội ngày nay, đã đạt đến chỗ cuối cùng, mê mất chân tâm. Thế nào là chân tâm? Chân Thành, Thanh Tịnh, Bình Đẳng, toàn bộ mê rồi. Mê mất chân thành, thì hư ngụy, hư tình giả y. Mê mất thanh tịnh, thì bị nhiễm ô.

Ngày nay, quý vị đều biết quả địa cầu bị nhiễm ô. Quả địa cầu bị nhiễm ô rất nghiêm trọng. Vì sao quả địa cầu bị nhiễm ô? Vì tâm con người nhiễm ô trước, sau đó địa cầu bị nhiễm ô. Phật pháp nói rất hay: “Tâm tịnh tắc Phật độ tịnh”. Vì thế, ngày nay, nói về bảo vệ môi trường, khi chúng tôi giảng kinh đã đề cập đến rất nhiều lần. Có thể làm tốt việc bảo vệ môi trường không? Không thể! Vì sao vậy? Vì tâm không thanh tịnh, quý vị làm được việc bảo vệ môi trường thành công, đó là điều không thể có được. Do đó, thật sự hiểu được việc bảo vệ môi trường, thì đầu tiên phải bảo hộ tâm thanh tịnh của chính mình.

Bảo hộ tâm chân thành của chính mình, nhất định phải đề xướng hiếu đạo, phải đề xướng sư đạo, mới có thể cứu được bản thân, mới có thể cứu được chúng sinh. Hai đạo này không thể thiếu được. Một bên không có, thì bên kia cũng không thể thành tựu, thật sự giống như đôi cánh của con chim vậy. Ngày xưa, thân thế địa vị của thầy giáo hoàn toàn giống như cha mẹ vậy. Cha mẹ qua đời, con cái để tang 3 năm, tận hiếu, báo đáp công ơn cha mẹ.

Sau khi thầy giáo qua đời, học sinh đối với thầy giáo để tang trong tâm 3 năm, nghĩa là không mặc đồ tang. Sự khác biệt ở chỗ này, ngoài điều này ra thì không có gì khác biệt cả, nhớ ân thầy giáo. Khi cha mẹ, thầy giáo còn tại thế, từ cách xưng hô của người Trung Quốc là quý vị có thể biết được. Người Trung Quốc có danh có tự, tên là cha mẹ đặt cho. Khi quý vị chưa thành niên, thì mọi người gọi tên quý vị. Sau khi thành niên, thì không được gọi tên nữa.

Trung Quốc cổ đại, người nam 20 tuổi, thì thành niên; người nữ 16 tuổi, thì thành niên. Thành niên, thì đội mũ. Làm Lễ đội mũ, biểu thị quý vị là người lớn, không còn là đứa trẻ nữa. Bắt đầu từ ngày hành Lễ đội mũ, thì người ta không còn gọi tên quý vị nữa. Khi hành Lễ đội mũ, người ta sẽ tặng cho quý vị một chữ. Chữ này do ai tặng? Đại khái là anh em, các quý vị, những người ngang hàng tặng cho quý vị chữ này. Sau này, chỉ có cha mẹ quý vị gọi tên, còn ông bà nội, chú bác người thân của quý vị đều gọi chữ, biểu thị tôn trọng quý vị.

Tương lai quý vị làm quan trong triều đình, Hoàng thượng gọi quý vị bằng chữ, chứ không gọi bằng tên. Tôn trọng quý vị mà. Quý vị biết mình được gọi bằng tên chỉ có cha mẹ. Ngoài ra, còn có một người suốt đời gọi quý vị bằng tên, đó là thầy giáo. Thầy giáo giống như cha mẹ vậy, không gọi quý vị bằng chữ mà gọi bằng tên. Do đó, người xuất gia có danh có tự. Khi quý vị thọ giới, quý vị có tự hiệu. Ai là người suốt đời gọi quý vị bằng tên? Thầy thế độ cho quý vị gọi quý vị bằng tên.

Còn một người nữa đó là thầy truyền pháp, trong đạo Phật gọi là Hòa thượng. Hòa thượng là thân giáo sư. Pháp của quý vị do vị này truyền cho, cho nên suốt đời vị này gọi quý vị bằng tên. Từ đó quý vị biết được, đời người có hai ân đức lớn nhất đó là cha mẹ và thầy giáo, suốt đời không được quên. Thường nghĩ đến cha mẹ và thầy giáo, thì quý vị sẽ không có tà niệm. Trong lòng có suy nghĩ tà, lập tức quý vị nhớ đến, có lỗi với cha mẹ, có lỗi với thầy giáo.

Tà tư tà niệm đều không có, thì làm sao quý vị làm việc xấu được! Làm gì có lý đó? Sự dạy dỗ của Thánh nhân đối với con người có ảnh hưởng đến mức nào, sự chăm sóc của thầy giáo đối với học sinh không khác gì cha mẹ, đôi khi còn hơn cả cha mẹ. Vì thế, bất hiếu với phụ mẫu, quý vị đều biết đó là đại nghịch. Bất kính thầy giáo và bất hiếu với cha mẹ tội như nhau. Điều này, chúng ta chẳng thể không biết.

Thầy của chúng ta ngày nay là đức Phật Thích Ca Mâu Ni và đức Phật A Di Đà. Đức Thích Ca và đức Di Đà ở đâu? Ở trong bộ kinh này. Bộ kinh này nếu chúng ta không học kỹ, chính là không kính thầy giáo. Sự giáo huấn trong bộ kinh này, nếu chúng ta không đem áp dụng trong cuộc sống hàng ngày, thì làm sao chúng ta xứng đáng với đức Phật Thích Ca Mâu Ni đây?

Đời này, chúng ta không thể vãng sinh về thế giới Tây Phương Cực Lạc, thì chúng ta có lỗi với Phật A Di Đà. Phật A Di Đà hy vọng chúng ta đến thế giới Cực Lạc, đó là môi trường tu học rất tốt, trong pháp giới hư không giới, không có một chỗ nào có thể đem so sánh với nơi này được. Người đến được đó để tu tập, thì chẳng ai không thành Phật cả. Bảo đảm quý vị sẽ thành tựu.

Nếu như chúng ta còn lưu luyến lục đạo là sai rồi! Cha mẹ không học Phật, không biết được sự thù thắng của Phật pháp, những hy vọng đối với chúng ta, đều là danh văn lợi dưỡng của thế gian. Sau khi chúng ta học Phật rồi, cha mẹ cũng hiểu, cha mẹ thấy rồi cũng hiểu ra. Chúng ta được thành tựu trong Phật pháp, thì cha mẹ cũng được lợi ích. Trong ngạn ngữ nói: “Nhất tử thành Phật, cửu tổ sinh thiên” (Một người con thành Phật, 9 đời tổ tiên sinh thiên).

Quý vị xem, nếu tâm quý vị hướng thượng, thì 9 đời tổ tiên đều được sinh thiên. Hiếu cảm thiên địa, chúng ta muốn báo ơn cha mẹ, thật sự vãng sinh về thế giới Tây Phương Cực Lạc là chân báo ơn. Trong Phật pháp không thể thành tựu, thì lấy gì để báo ơn đây? Chúng ta không được mê lầm nữa. Thật sự không mê, thì quý vị sẽ không đuổi theo cảnh, nghĩa là quý vị không bị cảnh giới bên ngoài làm lay chuyển. Quý vị còn bị cảnh giới bên ngoài lay chuyển, là quý vị mê mà không giác.

Nói cách khác, hiện tượng mê tâm là gì? Là tự tư tự lợi, là làm việc danh văn, lợi dưỡng, là tham ái, ngũ dục, lục trần, trong tâm vẫn còn tham, sân, si, mạn. Đó là mê. Mê tâm học Phật. Mê tâm chính là tâm luân hồi, học Phật không ra khỏi lục đạo luân hồi. Tu giỏi đi nữa, thì quả báo cũng ở cõi Nhân, Thiên. Phúc báo của Nhân, Thiên không ra khỏi lục đạo luân hồi. Điều này chẳng thể không biết. Không ra khỏi lục đạo, ở trong lục đạo, chắc chắn thời gian ở tam ác đạo rất dài, thời gian ở tam thiện đạo ngắn, gọi là trầm luân khổ hải, thoạt nổi thoạt chìm. Ở trong lục đạo, quý vị sinh về tam thiện đạo, giống như là thoạt nổi, thời gian rất ngắn; thoạt chìm đến tam ác đạo thời gian rất dài. Vì thế, ở trong lục đạo, tam ác đạo là quê hương, tam thiện đạo là nơi đến du lịch vãn cảnh, thời gian rất ngắn ngủi, quý vị nghĩ xem có khổ không.

Đức Phật muốn cứu độ chúng sinh những khổ nạn này, nhờ đại nguyện mười niệm nhất định vãng sinh. Đây chính là pháp môn phương tiện cứu cánh, phát Bồ đề tâm, nhất hướng chuyên niệm. Đoạn sau sẽ giảng giải cho quý vị rõ ràng. Chúng sinh thật sự vì pháp môn này, mà siêu việt luân hồi, siêu việt mười pháp giới.

Cố vi đa chướng chúng sinh, đặc thùy phương tiện, khai thử dị hành chi pháp, thậm chí ư kinh diệt thời độc lưu thử kinh, dĩ tác chu hàng, cố vân chuyên vi phàm phu dã (Vì chúng sinh nhiều chướng ngại, nên đặc biệt bày phương tiện, mở pháp dễ hành này, thậm chí khi kinh điển không còn, chỉ còn lưu lại kinh này để làm con thuyền cứu vớt, cho nên nói, chuyên vì chúng sinh phàm phu vậy).

Đây là lời nói chân thật, không giả chút nào. Pháp của đức Phật Thích Ca Mâu Ni diệt tận, pháp vận của đức Phật một vạn hai ngàn năm, hiện tại đã trải qua hơn 3.000 năm rồi, đại khái vẫn còn hơn 8.900 năm nữa, pháp vận của Đức Thế Tôn. Khi đó kinh điển của đạo Phật biến mất trên thế gian này, nhưng bộ kinh này vẫn còn, bộ kinh này diệt sau cùng. Kinh Vô Lượng Thọ vẫn còn, nhưng bản nào của kinh Vô Lượng Thọ? Chắc chắn là Hội tập bản này, chắc chắn là chú giải của Hoàng Niệm Tổ lão cư sĩ, cuốn sách này diệt sau cùng. Sau khi cuốn sách này diệt rồi, thêm 100 năm nữa thì diệt, chỉ còn lại Nam Mô A Di Đà Phật, chỉ còn lại 6 từ này, còn phải lưu truyền một thời gian nữa. Khi đó, có người nghe được danh hiệu này, mà phát nguyện chấp trì được, thì cũng được vãng sinh. Thật sự không thể nghĩ bàn.

Chúng ta sống trong thời đại này, muốn bản thân mình không bị hoạn nạn, muốn gia đình mình hạnh phúc, muốn xã hội an định, thế giới hòa bình, ngoài phương pháp này ra, thì không có phương pháp nào khác. Làm thế nào để hóa giải tai nạn? Ở trong Phật pháp là giảng kinh, dạy học. Vì sao vậy? Vì con người giác ngộ, thì tai nạn sẽ không còn. Con người mê hoặc, thì tai nạn sẽ hiện tiền, cho nên cảnh tùy tâm chuyển, tướng do tâm sinh là nguyên lý này. Nguyên lý, nguyên tắc vĩnh viễn bất biến. Điều này chúng ta phải ghi nhớ.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 49)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 48)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 47)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 329
    • Số lượt truy cập : 8549820