Thông tin

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH GIẢI DIỄN NGHĨA - TẬP 42

 

 

Chủ giảng: LÃO PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG

*****

Trưởng ban biên dịch:

TK. Thích Đồng Bổn

 

QUYỂN 5

(Tập 41-50)

 

TẬP 42

 

Giảng ngày 17 tháng 5 năm 2010 Tại Tịnh Tông Học Viện Úc Châu

Biên dịch: Tử Hà - Biên tập: Bình Minh

 

Các vị pháp sư, các vị đồng học, mời xem tiếp Đại thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, dòng thứ 8, trang 44. “Hựu mật điển Tỳ Lô Xá Na kinh vân, Đại bi vi căn.

Bồ đề vi nhân. Phương tiện vi cứu cánh” (Lại, kinh Tỳ Lô Xá Na thuộc Mật điển có ghi: Đại bi làm căn. Bồ đề làm nhân. Phương tiện làm cứu cánh).

Mấy câu kinh này trước kia đã từng dẫn chứng qua. Ở đoạn này lại đưa ra nữa, dụng ý rất sâu. Phật pháp, nhất là Phật pháp Đại thừa, 3 câu này đã nói hết ra nội dung. Căn là gì? Căn là Đại bi. Đại bi là sao? Là tâm đồng tình, là tâm lân mẫn, tâm yêu thương. Đó là căn. Căn ở đây được sinh khởi từ tự tính, trong tự tính vốn sẵn có, chứ chẳng phải từ bên ngoài.

Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Thế Tôn thường nói, tất cả chúng sinh vốn là Phật. Phật là gì? Là Đại từ Đại bi. Do đó, ngày xưa có người hỏi rằng, thế nào là Phật giáo? Chư vị tổ sư trả lời họ bằng 2 câu: “Từ bi vi bản. Phương tiện vi môn”. Đó chính là Phật pháp Đại thừa.

Phương tiện là gì? Phương tiện, nghĩa là dùng phương pháp thích hợp nhất, để thể hiện tâm từ bi. Từ bi, Bồ đề, Phương tiện, đều sẵn có đầy đủ trong tự tính. Khi Đại sư Huệ Năng khai ngộ nói: “ kỳ tự tính, bản tự cụ túc”, không thiếu điều gì. Tâm từ bi của chúng ta đi đâu mất rồi? Tâm từ bi bị trật đường rày rồi, mê rồi. Sau khi mê bị trật đường rày rồi. Trật thành cái gì đây? Trật thành tự tư, tự lợi. Tự tư, tự lợi nếu như phục hồi trở lại bình thường, thì đó chính là Đại từ Đại bi.

Nên biết rằng, hiện nay chúng ta đang ở vào thời kỳ không chỉ không được bình thường, mà còn rất không bình thường, vô cùng tự tư, ngay cả cha mẹ cũng không cần, vợ con cũng không cần luôn. Trật đường rày 180o, cho nên cần có Bồ đề làm nhân. Bồ đề là trí tuệ sẵn có trong tự tính, gọi là tính trí tuê. Trí tuệ này xuất hiện, mới có thể phục hồi sửa đường rày trở lại bình thường.

Vì thế, tu học Phật pháp, nhất định quý vị cần nên biết, tu cái gì? Chẳng phải cầu thăng quan phát tài, không cầu những thứ đó, chẳng phải cầu danh văn lợi dưỡng, mà cầu trí tuệ, nghĩa là cầu Bồ đề. Cầu Bồ đề cách nào đây? Bồ đề là giác ngộ. Giác nghĩa là trí tuệ trong tự tính hiển lộ, mê thì nó biến thành phiền não. Bồ đề thành phiền não, Vô minh phiền não, là khi bắt đầu mê. Khi mê nghiêm trọng rồi, là Trần Sa phiền não, Kiến Tư phiền não.

Kiến Tư phiền não chính là luân hồi lục đạo. Mê rồi thì tạo nghiệp. Nghiệp lực dẫn đến quả báo. Quả báo ở đây là tam đồ lục đạo. Tam đồ lục đạo vốn là không có, cái vốn có, ở trong giáo lý Đại thừa, không còn cách nào khác, bèn đặt cho nó một danh từ gọi là Nhất chân pháp giới. Nhất chân pháp giới là chỉ cho Thật Báo Trang Nghiêm Độ của chư Phật Như Lai. Cái này vốn sẵn có.

Tâm hiện, duy tâm hiện ra là Nhất chân pháp giới. Nhất chân pháp giới biến thành mười pháp giới, biến thành lục đạo luân hồi, biến thành tam đồ địa ngục. Đó là gì? Đó là tâm niệm sai lầm của quý vị, tâm thái không được bình thường, biến hiện ra huyễn tướng, không có thật. Kinh Kim Cương nói: “Hết thảy hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh”.

Lục đạo tam đồ là mộng huyễn bào ảnh, chẳng những những thứ này mà ngay cả pháp giới Tứ thánh cũng là mộng huyễn bào ảnh. Trong mười pháp giới Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát, Phật, vẫn còn thuộc về mộng huyễn bào ảnh. Tứ thánh gọi là Tịnh độ, tuy mê, nhưng chưa nghiêm trọng, tuy có nhiễm ô, nhưng nhiễm ô chưa sâu dày. Đối với sự chỉ dạy của chư Phật, Bồ tát biết tôn trọng, biết kính ái, biết y giáo phụng hành, cho nên cảnh giới của vị này tuy không phải là Thật Báo Độ, nhưng rất gần với Thật Báo Độ, gọi là Tịnh độ.

Lục đạo gọi là nhiễm ô. Ngày nay, nhiễm ô rất nghiêm trọng. Nguyên nhân gì vậy? Không có Bồ đề, cũng không có từ bi, chẳng phải thật sự không có, mà nó bị biến chất. Đại bi biến thành tự tư, tự lợi, Bồ đề biến thành ngu muội, cho nên quả báo hiện tiền ra sao? Súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục. Xã hội của chúng ta ngày nay, các vị nghĩ thử xem, có phải là súc sinh, địa ngục, ngạ quỷ không? Súc sinh là gì? Là ngu muội vô tri, tri kiến điên đảo, chính pháp thì xem là tà pháp, tà pháp cho là chính pháp. Ngày nay, nói gì? Giá trị quá điên đảo. Người xưa cho rằng nhân nghĩa là tốt, được mọi người khẳng định, người thời nay đối với nhân nghĩa lại cho rằng không đáng một xu.

Cái gì là tốt nhất? Tự tư, tự lợi là tốt nhất. Con người sống vì mình, chứ không phải sống vì người khác. Con người có thể tổn người lợi mình. Tổn người lợi mình mà là anh hùng, là hào kiệt, thật là điên đảo, không như ngày xưa. Ngày xưa, có thể xả thân, giết thân thành nhân, thành nhân thủ nghĩa. Ngày nay, giá trị quan điên đảo rồi, thị phi điên đảo. Tà chính điên đảo, cho nên câu sau đây vẫn lấy phương tiện làm cứu cánh. Phương tiện ở đây là gì? Là phương tiện phản diện, chứ không phải là phương tiện chính diện.

Chúng ta nhìn thử xem xã hội ngày nay, có giống súc sinh hay không? Con người đôi khi còn không bằng súc sinh nữa. Có giống ngạ quỷ không? Có giống địa ngục không? Địa ngục trần gian! Con người sống trên thế gian này, mà không biết vì sao lại sống. Con người sống trên thế gian này có ý nghĩa gì? Có giá trị gì? Họ đều không biết. Không biết, nhưng họ vẫn khởi tâm động niệm, vẫn có ngữ ngôn tạo tác.

Họ tạo tác điều gì? Quý vị quan sát kỹ mà xem, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác, hoàn toàn tương ưng với 3 ác đạo. Nghiệp nhân đầu tiên của 3 ác đạo là tham, sân, si, quý vị xem có phải là tương ưng với cái này hay không? Từ phương tiện của họ mà nói, sát sinh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, những thứ này là phương tiện của họ, phương tiện của chúng sinh trong 3 ác đạo. Ý nghĩa này có thâm sâu không?

Các nhà khoa học thời cận đại chứng minh, dùng lý luận của lượng tử lực học để chứng minh, tâm trạng của con người sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của cơ thể. Họ đưa ra 2 ví dụ, một là phẫn nộ, một là từ ái.

Trong tâm có từ bi, có lòng yêu thương, tâm trạng này sẽ ảnh hưởng đến tế bào trong cơ thể của chúng ta. Nó đã được nguồn dinh dưỡng rất tốt, năng lực miễn dịch, luôn luôn hướng thượng, cơ thể của họ khỏe mạnh. Nếu như phẫn nộ, họ nói sự ảnh hưởng của phẫn nộ là mặt trái, khiến cho những tế bào mang theo mầm bệnh độc tố; năng lực miễn dịch bị giảm xuống, rất dễ bị virut truyền nhiễm từ bên ngoài. Đây là nói về tâm trạng của nhân loại, chẳng thể nói nó không liên quan đến cơ thể. Chúng có quan hệ mật thiết. Nói rộng ra đến môi trường, thật sự như trong đạo Phật nói, “tướng do tâm sinh, cảnh tùy tâm chuyển”, ảnh hưởng đến môi trường bên ngoài.

Họ cũng đưa ra một ví dụ, lời cầu nguyện trong tộc quần xưa của người ngoại quốc, khi hạn hán cầu mưa, thấy một người ở nơi hoang vắng cầu nguyện. Sau khi cầu nguyện xong, họ nói công việc của chúng ta làm xong rồi, về thôi!

Trời không mưa, nhưng mà buổi sáng cầu nguyện, buổi chiều sắp hoàng hôn, thì thật sự có mưa. Đầu tiên mưa rất lớn, sau đó mỗi ngày đều có một trận mưa, cứ thế mà mưa, suốt một mùa hai, ba tháng. Hỏi họ cầu nguyện cách nào? Họ nói không phải họ cầu ông trời cho mưa xuống, họ không có tâm niệm này. Họ niệm điều gì? Cảm ơn trời xanh, cảm ơn đại tự nhiên, đã yêu thương những chúng sinh sống ở nơi này như thê. Họ hoàn toàn dùng tình thương, không cần cầu nguyện, cảm ơn, yêu thương, thì tự nhiên sẽ thông thôi.

Điều này khiến chúng tôi nhớ đến trong sách xưa có ghi một đoạn. Trong truyện ký của Đại sư Liên Trì có ghi một câu chuyện. Năm nọ, Hàng Châu bị hạn hán. Đại sư Liên Trì sống ở Hàng Châu. Tôi có đến thăm đạo tràng của Ngài. Bây giờ, không phải là đạo tràng nữa. Bây giờ, biến thành quán trà rồi, chúng tôi thấy rất đau lòng. Chính điện làm phòng trà, bán trà. Chỗ cúng Phật ngày xưa, bây giờ đặt một cái bàn dài, là chỗ để ca nhạc, khiêu vũ, biểu diễn. Cũng còn may, họ biểu diễn toàn là âm nhạc cổ điển.

Thái thú của Hàng Châu xin Đại sư Liên Trì giúp cho nông dân cầu mưa. Đương nhiên, Đại sư Liên Trì không thể từ chối rồi. Ngài nói tôi cũng không biết cầu mưa, tôi chỉ biết niệm Phật, cho nên Ngài dẫn theo một nhóm người gồm có người xuất gia và người tại gia. Bản thân Ngài cầm khánh và mõ, dẫn theo một đoàn người này đến đồng ruộng niệm Phật, ở đó đi nhiễu Phật. Thật kỳ lạ, sau khi niệm xong, thì chỗ đó bèn có mưa. Thực nghiệm này với người ngoại quốc kia cùng một lý như nhau.

Tâm yêu thương chân thật cùng với đại tự nhiên, cùng với thiên địa, quỷ thần thông suốt, lưu thông với nhau. Con người yêu đại tự nhiên, con người kính thần minh, thì thần minh và đại tự nhiên cũng yêu con người. Vì sao vậy? Vì là cộng đồng thể một sinh mạng, chẳng phải là hai việc đâu.

Vì vậy, một tâm niệm cực kỳ vi tế không đáng là gì của chúng ta, đều có sức ảnh hưởng rất lớn. Nhỏ là ảnh hưởng đến sức khỏe của thân tâm quý vị, lớn là ảnh hưởng đến môi trường bên ngoài. Cầu nguyện có hiệu quả, nhất thời, tạm thời, trị ngọn không trị gốc. Trị gốc nghĩa là sao? Trị gốc là giảng kinh, dạy học. Vì sao vậy? Vì giảng kinh, dạy học khai phát trí tuệ của con người. Trí tuệ hiện tiền, thì chẳng phải đã tìm thấy gốc rồi sao? Trí tuệ hiện tiền, thì sẽ có phương tiện cứu cánh. Phải dùng lời dạy của cổ thánh tiên hiền để giải thích chuyện này.

Căn là gì? Các bậc tiên hiền cho chúng ta biết, căn là phụ tử hữu thân. Thân là gì? Thân là thân yêu. Sự thân yêu của phụ tử không có điều kiện, là chân thật không giả dối. Quý vị thấy cha mẹ, thấy vào lúc nào? Trẻ sơ sinh, rõ ràng nhất là vào lúc 3-4 tháng, quý vị xem cha mẹ yêu thương đứa trẻ, đứa trẻ tuy không biết nói chuyện, nhưng dáng vẻ của nó đối với cha mẹ, nói lên sự yêu thương của nó rất rõ ràng.

Có lần tôi đi họp ở Nhật, mười mấy bạn học Tịnh Tông đi với tôi. Trên đường đi, trong đoàn có một bà mẹ trẻ, con của cô ấy được 4 tháng, mang theo một cái xe nhỏ. Trên đường đi, tôi kêu mọi người nhìn xem, đến xem phụ tử hữu thân. Ở đây, người xem sẽ thấy rõ ràng, sự giáo dục được gieo mầm từ chỗ này.

Mục đích dạy học là gì? Là hy vọng tình thân yêu này, suốt đời giữ gìn không bao giờ thay đổi. Đây chính là Đại bi. Từ bi vĩnh viễn bất biến. Đại bi biểu hiện ở chỗ phụ tử, nghĩa là phụ từ tử hiếu. Tâm Đại bi khi làm cha, ở địa vị này phải làm thế nào? Chính là từ ái, chính là thân yêu. Phận làm con cái thì phải làm sao? Chính là hiếu thảo, phương tiện, ở đây chính là nói về phương tiện.

Đối với lãnh đạo trung thành, thì quý vị chính là từ ái. Lãnh đạo đối với thuộc hạ nhân từ, thì đó đều thuộc về phương tiện. Nhưng mà ở trong đây quan trọng nhất là trí tuệ. Nếu không có trí tuệ, quý vị sẽ không biết phải làm cách nào, thì quý vị sẽ không làm được. Trí tuệ mở rồi, thì gốc sẽ tìm thấy, cũng biết được làm cách nào để vận dụng cái căn này.

Các bậc tiên hiền của chúng ta, họ thật sự hiểu, thật sự có trí tuệ, đã nói cho chúng ta rất rõ ràng, đơn giản vắn tắt, rõ ràng minh bạch, không mập mờ một tí nào. Tâm từ bi của người cha là gì? Tâm từ bi của người con là gì? Tâm từ bi của huynh đệ là gì? Tâm từ bi của bạn hữu là gì? Đều dạy quý vị từ trên phương tiện. Đó chính là một sự từ bi.

Trong Ngũ luân nói, phụ tử hữu thân, quân thần hữu nghĩa, phu phụ hữu biệt, trường ấu hữu tự, bạn hữu hữu tín. Đó là tổng đại cương, tổng nguyên tắc! Trong Phật pháp giảng càng triệt để càng cứu cánh hơn. Khắp pháp giới hư không giới cùng với mình là một thể. Nói như dân gian là “nắm một cọng tóc mà động đến toàn thân”. Bản thân chúng ta có một quan niệm, một câu nói, một động tác, đều ảnh hưởng đến khắp pháp giới hư không giới. Đây là điều trong Hoa Nghiêm Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán nói.

Hiền Thủ Đại sư đưa ra một ví dụ là nhất trần, một vi trần châu biến pháp giới. Một vi trần vì sao châu biến pháp giới? Sự chấn động của một vi trần, sự ba động này châu biến pháp giới, xuất sinh vô tận. Lượng của một vi trần hàm dung không-có, sự ba động của một vi trần châu biến pháp giới. Tác dụng của một vi trần, là xuất sinh vô tận, là một thể. Vì thế, Tiến sĩ Giang Bổn Thắng ở Nhật làm thực nghiệm với nước. Tôi quen biết ông ta năm đó, tính đến nay đã có 10 năm rồi. Ông ta nói với tôi, nòng cốt của vũ trụ hình như chính là tình thương. Tôi nói, không sai. Tôi nói với ông ta, nòng cốt giáo lý của tất cả mọi tôn giáo trên thế giới, cũng chính là tình thương. Quý vị xem đạo Phật nói từ bi; đạo Thiên Chúa nói thần yêu người đời, thượng đế yêu người đời; đạo Hồi giáo nói chân chủ. Thật sự là nhân từ. Vì thế, nhân từ bác ái, tôi nói 4 từ này, là nòng cốt của giáo lý thần thánh trên toàn thế giới. Nó chính là tự tính, chính là Tính đức, chính là căn, chính là Bồ đề, chính là phương tiện.

Cổ thánh tiên hiền tìm được căn rồi, cũng có trí tuệ, trên phương tiện có đưa ra mấy ví dụ, chúng tôi quy nạp lại thành 12 từ: Hiếu Đễ, Trung Tín, Lễ Nghĩa, Liêm Sỉ, Nhân Ái Hòa Bình. Nếu như chúng ta thực hiện được hết 12 từ này, thì người này chính là Thánh nhân, người này chính là Phật, người này chính là thần. Điều này không giả dối đâu. Đông phương, Tây phương xưng hô không giống nhau, nhưng thực chất thì tương đồng, thực hành được từ bi, làm đến chỗ quá viên mãn. Phật pháp nói, từ bi là gốc..

Đạo Phật nói phương tiện, là nói đến điều gì? Nói về 10 đại cương ở đây chính là 10 thiện nghiệp. Trong Thập thiện, mỗi một điều đều đầy đủ 10 điều, đó là 100 điều. Trong 100 điều này, mỗi một điều đều đầy đủ 10 điều, trùng trùng vô tận. Do vậy, ở Tiểu thừa, Tiểu thừa có 3.000 oai nghi, là sự mở rộng ra của 10 thiện nghiệp 3.000 điều. Đại thừa Bồ tát

84.000 tế hạnh, vẫn là Thập Thiện Nghiệp mở rộng ra. 3.000 oai nghi là phương tiện cứu cánh. 84.000 tế hạnh là phương tiện cứu cánh của Bồ tát.

Nếu chúng ta dùng 12 điều đức mục: Trung, Hiếu, Nhân, Ái, Tín, Nghĩa, Hòa, Bình, thêm Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ, nói rộng ra, có phải là 84.000 tế hạnh của Bồ tát hay không? Đúng vậy, không sai chút nào, xem quý vị có trí tuệ để sử dụng nó hay không thôi. Có trí tuệ sử dụng nó, từng ly từng tí trong cuộc sống hàng ngày, không điều gì chẳng phải tâm từ bi đang hiện ra. Đây chính là nền tảng giáo dục của chúng ta, gốc của Phật pháp rất hay, Thập Thiện Nghiệp Đạo, Sa Di Luật Nghi, quá hay.

Chúng ta không có trí tuệ, thì không biết sử dụng nó, cho nên chúng ta học Đệ Tử Quy, học Cảm Ứng Thiên, từ trong đó học một ít trí tuệ. Thập Thiện Nghiệp Đạo chúng ta không biết triển khai, quý vị học Đệ Tử Quy thì sẽ biết được. Đệ Tử Quy tổng cộng có 360 câu, mỗi câu 3 từ. Nói cho quý vị biết, mỗi câu đều là Thập Thiện Nghiệp Đạo.

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên cũng là như vậy, mỗi câu đều không tách rời Thập Thiện Nghiệp Đạo. Quý vị học từ trong đó, quý vị học được điều gì? Học biết dùng Thập Thiện Nghiệp Đạo thực hiện trong cuộc sống hàng ngày, thực hiện trong công việc, công việc của các hãng, các xí nghiệp không đồng nhưng đều thực hiện. Thực hiện trong công việc tiếp nhân xử thế, sự quan hệ của quý vị đối với mọi người rất tốt, đạo Phật gọi đó là pháp duyên thù thắng. Được vậy, bất luận quý vị đi đến nơi nào, đều đón nhận được tình thương của mọi người; người ta hoan hỷ đón tiếp quý vị, muốn học tập theo quý vị. Đối nhân xử thế đến giai đoạn này, có thể nói là tương đối viên mãn rồi.

Quý vị chưa ra khỏi địa cầu. Địa cầu ở trong hư không, là một tinh tú rất rất nhỏ. Quý vị bước ra được, quý vị đi vào hư không vô tận, quý vị tiếp xúc với chúng sinh không cùng không gian. Phạm vi này lớn đấy, không chỉ là một Thập pháp giới. Tất cả sát độ của chư Phật đều có mười pháp giới.

Vì vậy, Thập thiện của quý vị khai triển ra, chắc chắn không chỉ là 84.000 biến thành cái gì? Biến thành vô lượng, vô biên, vô tận, vô số phương tiện. Trí tuệ của quý vị viên mãn rồi, phương tiện cứu cánh rồi, thì quý vị mới có thể hóa độ tất cả chúng sinh.

Cái minh tất hữu cứu cánh phương tiện độ sinh chi pháp, phương thị Như Lai quả giác cứu kính, cố thập niệm tất sinh chi cứu kính phương tiện, thật do ư Di Đà cứu kính thành tựu chi tối cực phương tiện xứ, chính thị bản kinh trung Như Lai định tuệ vô cực xứ (Bởi nói rõ nhất định có pháp môn Phương Tiện Độ sinh rốt ráo, mới là quả giác cứu cánh của Như Lai. Vì vậy, phương tiện rốt ráo mười niệm nhất định vãng sinh, thật sự do từ chỗ tột cùng thành tựu rốt ráo của Phật A Di Đà, cũng chính là chỗ định tuệ tột bực vô cùng của Như Lai trong kinh này).

Chúng ta nói có một người lâm trọng bệnh, tất cả mọi phương pháp trị liệu đều không thể giúp cho người này. Đức Phật có cách nào không? Nếu như đức Phật cũng đành chịu, thì Ngài không phải là bậc vạn đức vạn năng nữa; vạn đức vạn năng chỉ là lời tán thán, chứ không phải là lời chân thật. Chúng ta nên biết, sự phúc đáp của Phật pháp là khẳng định, chắc chắn là có.

Vấn đề ở chỗ quý vị có tin hay không? Quý vị thật sự tin tưởng, thì nó thật sự có hiệu qua. Quý vị hoài nghi, thì nó sẽ không có tác dụng. Điều này nếu như nói rõ ra, thì đức Phật thật sự có phương tiện, chứ đức Phật không có phương pháp. Điều này cần nên hiểu.

Phục hồi trọng bệnh của quý vị trở lại khỏe mạnh, phương pháp đó là gì? Phương pháp đó chính là sự tín tâm của quý vị, là tâm trạng của chính quý vị. Do đó, đức Phật có phương tiện, chứ không có phương pháp. Phương pháp là ở chính quý vị. Tâm trạng của quý vị chuyển rồi, thì bệnh của quý vị không còn nữa. Quý vị đến điểm giao nhau giữa sinh tử, con đường này là đường chết, con đường này là đường sống, quý vị không đi đường kia mà đi đường này, thì vấn đề được giải quyết thôi. Đức Phật có thể nói cho quý vị biết, những đạo lý và chân tướng sự thật này, nhưng chính quý vị phải bước đi, quý vị có quyền lựa chọn. Chư Phật, Bồ tát có thể dạy quý vị, nhưng bản thân quý vị không tiếp nhận, thì chẳng có cách nào. Phật pháp nói rất rõ ràng, mỗi người đều là một vị Phật, chỉ là bây giờ bị mê, mê quá sâu dày, thời gian mê quá dài. Nhưng mà mê có sâu dày có lâu đi nữa, nhưng giác ngộ chỉ ở trong một niệm.

Trong kinh Phật thường có một ví dụ, căn phòng tối ngàn năm, một đốm lửa là sáng, một ngọn đèn là chiếu sáng hết. Phòng tối ngàn năm là ví dụ thời gian quý vị mê quá dài, quý vị mê quá sâu dày, thắp một ngọn đèn lên là sáng, bóng tối không còn nữa. Đức Phật cho chúng ta biết, giác và mê chỉ ở trong một niệm. Trong mê có tội ác, một niệm giác ngộ thì tội ác không còn nữa. Vì sao vậy? Vì tội ác không có thật. Trong chân tính không có thiện ác, không có tội nghiệp. Tự tính vĩnh viễn là Thanh tịnh, Bình đẳng, Giác. Quý vị không giác là tạo nghiệp, là có tội, là phải thọ quả báo.

Vì thế, tin tưởng vững chắc mê, ngộ ở một niệm. Một niệm của chúng ta không chuyển được, vấn đề nằm ở chỗ nào? Vấn đề ở chỗ đối với chân tướng sự thật chúng ta còn hoài nghi. Nếu như không có hoài nghi, thì chắc chắn chuyển được. Vì sao đức Phật Thích Ca Mâu Ni chuyển được? Vì sao Lục tổ Huệ Năng chuyển được? Bây giờ quý vị xem cư sĩ Lưu Tố Vân ở Đông Bắc Trung Quốc, vì sao cô ấy chuyển được? Bản thân cô ấy nói, cô ấy đang biểu diễn. Câu này nói rất có ý nghĩa, cô ấy đang biểu diễn, thật sự là đang biểu diễn. Chẳng những bệnh của cô ấy không cần chữa trị, không hề uống tí thuốc nào mà hết bệnh, cơ thể khỏe mạnh, khỏe mạnh đến mức độ như lúc còn trẻ, hoạt bát hơn ngày xưa.

Người ta hỏi cô ấy vì sao vậy? Cô ấy nói vui một câu, cô ấy nói có thể gọi đó là phản lão hoàn đồng vậy! Đúng vậy, đúng là như vậy. Ở trong Phật pháp có căn cứ, tâm niệm, trong tâm cô ấy không có già, không có quan niệm về chữ già, cho nên cô ấy không suy, không già. Con người chúng ta khi có tí tuổi rồi, thì than thở tôi già rồi, tôi không làm được đâu, quả thật là không làm được. Vì sao vậy? Vì ý niệm đang chuyển người đó. Tuổi tác có thể mỗi năm một lớn, nhưng ý niệm vĩnh viễn ở lúc còn trẻ. Câu này, ngày xưa khi giảng kinh, tôi đã nói rất nhiều lần.

Tôi từng nói năm 26 tuổi, tôi học Phật, thì suốt đời vĩnh viễn là 26 tuổi, không chuyển biến theo cảnh giới bên ngoài. Quý vị 30 tuổi học Phật, thì vĩnh viễn quý vị 30 tuổi. Ở trong Phật pháp quý vị sẽ thật sự học được. Nhưng mà chúng ta vẫn còn một chút biến hóa, đó là gì vậy? Là vì chúng ta không học triệt để. Nếu chúng ta hoàn toàn triệt để, hoàn toàn rõ ràng, thì chúng ta sẽ thường ở giai đoạn đó.

Đối với Đại thừa giáo, tôi thật sự không rời một ngày nào, ngày nào cũng đọc kinh, ngày nào cũng giảng kinh. Không ở trong giảng đường, tôi nói chuyện với người cũng là giảng kinh. Tôi học rất vất vả, cho nên tôi nói với mọi người, tôi không phải là bậc thượng thượng căn. Tôi là bậc trung, hạ căn, nhưng mà từ nhỏ tôi đã có tín tâm, tôi không hoài nghi.

Tôi đối với giáo lý Đại thừa, đối với pháp môn Tịnh độ, hoàn toàn tin tưởng vững vàng. Đại khái vào lúc hơn 50 tuổi, trong đời tôi tiếp nhận sự chỉ dạy của Chương Gia Đại sư, giống như trong Kinh Lăng Nghiêm nói, “Tương thử thâm tâm phụng trần sát, thị tắc danh vi báo Phật ân” (Đem thâm tâm này phụng sự các cõi nhiều như vi trần, đó là để báo ân Phật). Hiến thân báo ân. Dùng cái gì làm phương tiện cứu cánh? Noi gương đức Thế Tôn làm một giáo viên có nghĩa vụ. Tôi không làm hiệu trưởng, tôi làm giáo viên, mỗi ngày giảng kinh thuyết pháp, sống một ngày làm một ngày.

Có duyên với thế gian này, thì tôi sống thêm vài năm, hết duyên với thế gian này, thì tôi đi về thế giới Tây Phương Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc là quê hương của tôi, gọi là trở về quê hương, lá rụng về cội. Tôi hiểu xã hội này rất rõ, sống trên thế gian này hiện nay, vẫn như vậy ngày nào cũng sống cùng chư Phật, Bồ tát, quý vị xem có vui sướng không? Có hạnh phúc không? Không rời một ngày nào. Phật, Bồ tát ở đâu? Ở trong kinh điển. Kinh điển là dẫn đường, là môi giới. Mượn sự dẫn đường môi giới này, trên tinh thần của chúng ta, chẳng những thông đạt với cổ thánh tiên hiền, chư Phật, Bồ tát, trên thực tế thì không có xa lạ.

Nếu quý vị hỏi vì sao vậy? Vì tất cả pháp theo tâm tưởng sinh. Nếu như chúng ta khởi tâm động niệm, giống như khi chúng ta thành lập Tịnh Tông Học Hội, tôi đưa ra 5 đề mục tu học, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác, đều có thể tương ưng với tam phúc, tương ưng với lục hòa. Người khác không hợp với tôi, nhưng tôi hợp với họ, điều này không chướng ngại lục hòa kính. Tất cả đều phải tự mình làm trước, đừng yêu cầu người khác. Yêu cầu người khác, thì quý vị sẽ có phiền não. Yêu cầu chính mình, đừng yêu cầu người khác.

Tương ưng với Tam học, Lục độ, Thập đại nguyện, đứng về sự cũng không rời tăng đoàn của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cũng không rời Tăng đoàn của thế giới Cực Lạc. Đó là chân thật, không giả dối. Tôi làm được, quý vị cũng làm được, mọi người đều làm được.

Thầy của chúng ta là kinh Hoa Nghiêm, là kinh Vô Lượng Thọ, là kinh Pháp Hoa. Trong kinh giáo này là Nhất thừa kinh giáo, còn thù thắng hơn Đại thừa. Nắm bắt được một bộ, kiên nhẫn miệt mài, chọn bộ kinh này không cần chúng ta phải lo lắng. Chư Phật, Bồ tát, chư vị Tổ sư, đều cho chúng ta biết, kinh Vô Lượng Thọ là số một. Quý vị xem trong lời giới thiệu của cư sĩ Mai Quang Hi, ông ấy nói: Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, cũng là dẫn đường của kinh Vô Lượng Thọ, dẫn đường cho quý vị vào kinh Vô Lượng Thọ. Nếu như chúng ta không hoài nghi mà hoàn toàn tiếp nhận, thì quý vị chính là bậc thượng thượng căn.

Ở đây, chúng ta giảng đến chỗ chuyên tiếp thượng căn, không hề nói sai một chút nào. Chúng ta ở trong thế giới tinh thần, ở trong thế giới tính linh, chúng ta sống cùng với chư Phật, Bồ tát, sống cùng với cổ thánh tiên hiền, quý vị nghĩ xem đó là việc vui không? Như vậy, thì làm sao lại không sinh tâm hoan hỷ được? Làm sao lại không có pháp hỷ sung mãn, cho nên mỗi câu mỗi chữ trong kinh là vô lượng nghĩa, giảng hoài không hết.

Như Lai ở đây là chỉ cho Phật A Di Đà, hoặc là đức Phật Thích Ca Mâu Ni, nhất định có pháp phương tiện cứu cánh để độ sinh. Bất luận quý vị là chúng sinh hạng nào, hành thiện cũng được, tạo nghiệp cũng được, Ngũ nghịch, Thập ác cũng được, đều có thể giúp cho quý vị một đời thành Phật. Đây gọi là pháp phương tiện cứu cánh độ sinh. Như thế mới thật sự hiển thị quả giác cứu cánh của Như Lai, thật sự là viên mãn, không hề khiếm khuyết. Nếu như điều này không làm được, là khiếm khuyết, thì không gọi là viên mãn.

Đức Phật A Di Đà dùng phương pháp gì để đạt đến cứu cánh viên mãn? Lâm chung mười niệm nhất định sinh. Một đời mê hoặc, điên đảo, hồ đồ, tạo tác đại tội Ngũ nghịch, Thập ác, chắc chắn đọa địa ngục A Tỳ. Phật A Di Đà dạy vào lúc lâm chung, dùng một niệm, mười niệm nhất định sinh. Đây là phương tiện cứu cánh, không còn gì để nói nữa. Nhưng mà ở chỗ này, các vị cần nên biết, người vãng sinh này cần phải hội đủ 3 điều kiện, nếu không hội đủ, thì khi lâm chung họ không biết niệm Phật, họ không thể vãng sinh được. Thứ nhất là đầu óc sáng suốt, cho nên khi lâm chung sợ nhất là người già bị lẫn. Có người từng hỏi tôi, người già bị lẫn làm sao giúp cho họ đây? Chẳng có cách nào! Chỉ có thể niệm Phật khiến cho họ nghe thấy, “nhất lịch nhĩ căn, vĩnh vi đạo chủng” (một khi nghe lọt vào tai, mãi mãi trở thành hạt giống đạo). Đối với hạng người này, trồng chủng tử A Di Đà Phật vào trong A Lại Da thức của họ. Vì vậy, tâm niệm trước khi vãng sinh phải rõ ràng. Phàm người khi lâm mạng chung đầu óc sáng suốt, cho các vị biết, nhất định người này không đọa vào 3 đường ác. Vì sao vậy? Vì họ không chọn nơi đó để đi, chắc chắn là cõi Nhân, Thiên.

Do đó, nói chết tốt là một trong ngũ phúc. Khi chết rõ ràng minh bạch, họ không đọa vào ác đạo. Vì thế, cái thứ nhất là khi lâm chung đầu óc sáng suốt. Thứ hai là gặp được thiện hữu nhắc nhở, có người dạy họ, như tiên sinh Châu Quảng Đại ở Hoa Thịnh Đốn, nước Mỹ. Ông ta một đời không tiếp xúc với tôn giáo, trước khi mất 3 ngày, người nhà mới tìm đến Tịnh Tông Học Hội của chúng tôi. Học trò của chúng tôi đến giúp cho ông ấy, nói cho ông ấy cái hay của thế giới Cực Lạc, khuyên ông ấy niệm Phật, phải có cơ hội này. Thứ ba là sau khi nghe rồi, thì phải tin tưởng, phát nguyện, thế là được rồi.

3 điều kiện này thiếu một cũng không được. Châu Quảng Đại có đầy đủ 3 điều này, cho nên ông ấy không phải là mười niệm, mà ông ấy niệm 3 ngày. Người thân của ông ấy 3 ngày 3 đêm, cùng với các bạn trong học hội của chúng tôi giúp ông ấy niệm. 3 ngày thật sự thành công, cả nhà đều tin tưởng, đều là tự hành hóa tha. Ông ấy biểu diễn như thế, quý vị xem cả nhà vốn là không tin, giờ đều tin hết. Các bạn học Tịnh Tông nghe được tin này, niềm tin đối với niệm Phật càng kiên cố. Việc đó không phải giả, mà là sự thật.

Thử hỏi, hiện tại cơ thể của chúng ta khỏe mạnh, Phật A Di Đà có thể giúp được không? Hiện tại, tập khí phiền não của chúng ta rất nặng, tội nghiệp rất sâu, chúng ta muốn sám trừ nghiệp chướng, muốn thân tâm mạnh khỏe để học Phật, Phật A Di Đà có thể giúp ta được không? Hiện nay, địa cầu mà chúng ta đang sống, nó bị bệnh rồi, tai nạn quá nhiều, Phật A Di Đà có thể giúp cho chúng ta hóa giải được không? Đáp án là khẳng định.

Phương tiện cứu cánh của Như Lai là gì? Cho quý vị biết, chính là giảng kinh, dạy học. Giảng kinh gì vậy? Giảng kinh Đại thừa Vô Lượng Thọ. Tất cả những nghi nan tạp chứng, phương pháp đối trị, phương pháp trị liệu, tất cả đều nằm trong bộ kinh này. Vấn đề ở chỗ quý vị có tin không? Tin, trong tôn giáo nói, người có tin thì được cứu. Quý vị có tin không? Tin thì quý vị được cứu.

Nói theo thực tế, bộ kinh nào cũng thù thắng, Phật Phật đạo đồng, kinh giáo cũng như vậy. Kinh Kim Cương nói rất hay, “Thị pháp bình đẳng, vô hữu cao hạ” (Pháp ấy bình đẳng không có cao thấp). Nhưng kinh Hoa Nghiêm quá dài, hiện nay cần cấp cứu, chúng ta tạm thời ngưng kinh Hoa Nghiêm một năm. Hy vọng trong một năm này, giảng bộ kinh Vô Lượng Thọ. Đó là gì? Cấp cứu mà! Sau đó, chúng ta từ từ học kinh Hoa Nghiêm. Chúng tôi sẽ tiếp tục giảng kinh Hoa Nghiêm, giảng hết kinh Hoa Nghiêm.

Tôi nghĩ, y theo cách giảng của chúng tôi ngày trước, giảng toàn bộ phẩm Thập Trụ. Sau phẩm Thập Trụ, thì không cần phải giảng kỹ như vậy nữa, chúng tôi sẽ y theo phương thức giảng kinh thông thường. Không phải là chỗ quan trọng, thì nói lược là được rồi. Bộ phận quan trọng, thì chúng tôi sẽ giảng kỹ, như thế thì thời gian có thể rút ngắn lại. Hy vọng, kinh Hoa Nghiêm không quá 5 năm là giảng xong. Nếu như y theo phương thức hiện nay, thì kinh Hoa Nghiêm phải giảng mất 20 năm. Chúng ta rút ngắn lại, 5 năm là giảng xong.

Do đó, chỗ phương tiện cứu cánh thành tựu cuối cùng của Di Đà, thật sự không sai chút nào, Ngài có, chẳng phải Ngài không có. “...Chính là chỗ định tuệ tột bực vô cùng của Như Lai trong kinh này”. Câu này là kinh văn, không có gì là chẳng giải quyết được, các nhà khoa học cũng đã chứng minh.

Dự ngôn trong ngoài xưa nay, có phải là thật không? Mọi người cũng khẳng định là thật. Nhưng mà cái thật ở đây, là cái thấy của họ vào thời điểm đó. Khi sự việc đến, vẫn còn rất nhiều nhân tố biến hóa tồn tại trong đó. Vì thế, sau mỗi dự ngôn đều xem nhân tâm của quý vị, quý vị có thay đổi hay không, đều có một câu như vậy. Điều này nói lên rằng dự ngôn nói là điều có thể, chứ không phải là nhất định. Nói là có thể, hoàn toàn ở trong tâm trạng của chúng ta.

Hiện nay, quý vị bị bệnh nặng, bệnh nguy rồi, thọ mạng của quý vị đã hết. Thọ mạng hết, thì chẳng có cách nào, có thể kéo dài thêm không? Có. Vì sao lại có thể? Thọ mạng của bản thân tôi hết rồi, không còn nữa, tôi vì chúng sinh, thọ mạng của chúng sinh còn dài. Nếu như quý vị có thể xả mình vì người, đem cái thể xác này cúng đi, phục vụ vì tất cả chúng sinh, không còn vì mình nữa, lập tức thọ mạng được kéo dài. Xem sự phát tâm của quý vị lớn hay nhỏ. Quý vị phát tâm nhỏ một chút, thì kéo dài được vài năm, phát đại tâm thì kéo dài vài chục năm, con số không nhất định.

Ở Trung Quốc có một người sống lâu nhất, đó là Bành Tổ, sống hơn 800 tuổi. Đại đệ tử của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, tôn giả Đại Ca Diếp đang nhập định ở núi Kê Túc, còn sống đó, 3.000 tuổi rồi, thọ mạng của Ngài lâu quá. Ngài đang chờ Bồ tát Di Lặc ra đời, đem y bát giao cho Bồ tát Di Lặc. Vậy còn phải chờ bao nhiêu năm nữa? Nếu theo cách tính của thế gian này thì là năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm nữa. Ngài phải sống lâu như vậy, chờ để giao y bát. Khi chúng tôi đi du lịch ở Đại Lý, Vân Nam, còn nghe người ta nói rằng, tôn giả Ca Diếp thường xuất hiện, người có duyên thì sẽ gặp được Ngài. Vì thế, pháp không có định pháp, đạo lý phải hiểu rõ ràng minh bạch. Tiền đồ một đời của mình, là do tâm niệm của mình tạo thành, không liên quan gì với người khác.

Nếu như oán trời trách người, thì tội nghiệp đó rất nặng, bị mê hoặc điên đảo rồi. Những đạo lý này, trong Hoàn Nguyên Quán giảng rất rõ ràng, giảng rất tỉ mỉ. Bộ kinh này rất thâm sâu, từ chỗ đại duyên khởi của vũ trụ bắt đầu giảng, giảng đến cuối cùng, dạy chúng ta tu chỉ, tu quán. Chỉ là học buông bỏ, quán là học nhìn thấu.

“Kim nhân yên năng nhân thử pháp chi dị hành, nhi bỉ thị chi hồ” (Người đời nay, sao có thể vì chỗ dễ thực hành của pháp môn này mà xem thường ư!). Đây là sự sai lầm của người ta đối với Tịnh Tông. Quan niệm sai lầm này, hình như pháp môn này quá dễ dàng; thành Phật làm Tổ làm gì có chuyện dễ dàng như vậy! Vì thấy dễ quá, nên họ xem thường pháp môn này. Họ muốn học những đại kinh đại luận khác, nhưng không hề biết rằng những đại kinh đại luận khác, chỗ quay về cuối cùng là tương đồng, con đường đó đi rất xa, đi rất nhiều đường vòng. Pháp môn này là đi đường thẳng. Vì vậy, người có thể tin được, bất luận là họ hạng người nào. Thật sự tin tưởng phát nguyện, đi con đường này đều gọi là thượng căn, chuyên tiếp thượng căn. Không tin, thì quý vị đi con đường vòng vậy!

Lão cư sĩ đưa ra một ví dụ, giống như TV màu, máy thu âm, máy tính điện tử, nhất định phải an toàn dễ dùng.

“Tuy ư khoa kỹ vô tri chi nhân, nhất án điện nữu, tiện năng hưởng thụ, thử tối hiện đại chi khoa học thành quả, nhân tất nhân kỳ an toàn dị dụng, nhi tán kỳ khoa kỹ chi tiên tiến” (Tuy người ta không biết khoa học kỹ thuật, nhưng một khi xem TV… liền có thể hưởng thụ thành quả của khoa học hiện đại một cách tối ưu. Người ta nhân sự tiện dụng an toàn này mà khen ngợi khoa học tiên tiến).

Đưa ra ví dụ này rất hay. Hiện nay, mỗi nhà đều sử dụng, quý vị phải nói ra đạo lý của nó. Người có thể nói ra được quá ít, nhưng mọi người đều biết dùng, đơn giản dễ dùng, lập tức có thể thu được hiệu quả, cho nên mọi người xem rất vui vẻ. Cái lý đó quá thâm sâu, hiểu hay không hiểu cũng chẳng sao, chỉ cần biết dùng là được rồi.

Cùng một lý như vậy, lý của Tịnh Tông quá thâm sâu, chỉ có Phật và Phật mới có thể cứu cánh, thì quý vị tìm sự phiền phức đó làm gì. Đức Phật nói chỉ có Phật và chư Phật mới có thể hiểu được, mới cứu cánh, ngày nay chúng ta chỉ cần làm theo phương pháp này, đến thế giới Tây Phương Cực Lạc là làm Phật rồi. Đó là đạo lý gì chẳng phải đã hiểu hết rồi sao?

Nếu hiểu hết rồi mới học, thì cả đời quý vị không có hy vọng rồi. Như vậy, đời này chắc chắn quý vị không hiểu được, quý vị không thể đi được. Quý vị không bằng bà già kia, cái gì cũng không biết, nhưng bà ấy đi trước. Đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, thì bà ấy hiểu hết. Quý vị không thể so sánh với bà ấy. Bà ấy là bậc thượng căn, quý vị là hạ căn. Quý vị thật sự hiểu rõ ràng sự việc này rồi, quý vị sẽ hiểu được vì sao lần này tôi để kinh Hoa Nghiêm qua một bên mà giảng bộ kinh này.

Kinh Hoa Nghiêm dạy quý vị hiểu rõ kinh này nói quý vị làm Phật trước, sau đó tự nhiên quý vị sẽ thông đạt hết. Thật sự tin tưởng chính mình, cho nên trong kinh Hoa Nghiêm thường nhắc đầu tiên tin tưởng chính mình vốn là Phật. Điều này rất quan trọng. Trong kinh Tịnh độ, “Tâm này là Phật. Tâm này làm Phật”. Trong Quán Kinh nói như vậy: “Tâm này là Phật”, nghĩa là đức Phật dạy, tất cả chúng sinh vốn là Phật. Tâm này làm Phật, ngày nay quý vị niệm Phật A Di Đà chính là tâm này làm Phật.

A Di Đà Phật là tự tính Phật. Quý vị niệm danh hiệu Phật này, chính là tâm này làm Phật. Quý vị vốn là Phật, bây giờ lại làm Phật, thì làm sao không thành Phật được? Phải niệm thời gian bao lâu để thành Phật? Thông thường xem ra là 3 năm, quý vị nghĩ xem có nhanh không? Phàm phu làm Phật chỉ cần 3 năm. Nhưng mà quý vị nghe thấy câu này e rằng quý vị kinh sợ: Ôi! 3 năm là phải chết rồi. Pháp môn này không thể học được, làm người ta khiếp sợ mà thoái tâm.

Đúng vậy. Đó là gì? Mê hoặc nên mới như vậy. Trong lục đạo khổ như vậy mà còn không giác ngộ, còn không buông được, còn lưu luyến, thì còn có cách nào nữa? Chư Phật, Bồ tát đứng bên cạnh cũng cảm thấy mắc cười, chẳng có cách nào. Thôi được, quý vị đã không thể buông bỏ được mà đi, thì quý vị thọ khổ thêm vài năm nữa vậy, chờ quý vị thọ đủ rồi tính tiếp.

Sự thật quả đúng là như vậy, chư Phật, Bồ tát tuyệt đối không ép buộc quý vị đâu. Quý vị đồng ý ở luân hồi, thì để quý vị ở, chờ một ngày nào đó quý vị ngán rồi, quý vị không muốn ở đó nữa, thì chư Phật, Bồ tát sẽ đến.

“Phật ngay tại cửa, không bỏ người nào”, đại nguyện này thật đáng nể! Chư Phật, Bồ tát tuyệt đối không ép buộc người nào. “Hằng thuận chúng sinh, tùy hỷ công đức”, quý vị muốn làm gì, thì quý vị làm điều đó, các Ngài tuyệt đối không can thiệp. Điểm này chúng ta nên nhớ.

Chúng ta thấy người thân quyến thuộc, thấy được những người chúng ta tôn trọng, chúng ta thích, họ đang tạo ác nghiệp, đừng nên can thiệp vào. Nên khuyên họ, khuyên họ không tin thì thôi, không nên nhất định ép buộc. Nhất định ép buộc là không tốt, ngay Phật, Bồ tát còn không ép buộc, hà huống là chúng ta. Phương pháp hữu hiệu nhất, là chính bản thân quý vị làm cho họ xem, họ sẽ tin tưởng. Nếu họ nhìn thấy sự thật, thì họ sẽ tin.

Nói lời này, đại khái cũng khoảng ba, bốn mươi năm rồi, Lão thái thái của Hà Đông Tước Sĩ ở HongKong, bà ấy có thiện xảo phương tiện. Hà Đông Tước Sĩ là tướng quân, cả gia đình là tín đồ đạo Cơ Đốc. Lão thái thái niệm Phật, trở lại thời xưa, còn tiếp nhận một chút văn hóa truyền thống, hiểu được hiếu thảo cha mẹ, cho nên mẫu thân niệm Phật, cả nhà tuy là tín đồ đạo Cơ Đốc, nhưng cũng không phản đối. Trong nhà có lập một điện Phật nhỏ, cúng dường cho mẫu thân. Mẫu thân cũng không khuyên họ tin Phật. Đạo ai người đó giữ, mọi người sống cùng nhau, rất hiếm có.

Khi mẫu thân vãng sinh, không hề bị bệnh, biết được giờ đi, mở một đại hội vãng sinh tiễn biệt, mời tất cả người thân bạn bè của bà ấy đến nhà, mời họ ăn cơm, nói cho họ biết, hôm nay bà ấy vãng sinh. Mọi người cảm thấy kỳ lạ, Lão thái thái bình thường, rất mạnh khỏe mà, nói chết là chết sao, ấy mà đến giờ bà ấy thật sự vãng sinh, ngồi mà mất, đi thật rồi. Tất cả con cháu của bà ấy đều tin hết, đều tin Phật, đó là sự thật, không giả dối đâu.

Lão thái thái độ hết cả nhà, có thời tiết nhân duyên. Nhân duyên chưa đến, thì chẳng nói gì, nói chỉ thêm phiền phức, mọi người không được vui. Nhân duyên đến rồi, biểu diễn cho họ xem, cả nhà đều tin hết. Đó là có trí tuệ! Chẳng phải là trí tuệ chân thật, thì không làm được đâu. Vì thế, chúng ta muốn độ người thân quyến thuộc, nên dùng phương pháp này. Biết được giờ đi, ngày nào vãng sinh, báo cho người thân và bạn bè đến tiễn chân quý vị, để cho họ tận mắt chứng kiến, họ sẽ niệm Phật, họ sẽ chấp nhận.

Ở đây, Lão cư sĩ đưa ra một số khoa học kỹ thuật hiện đại, giúp cho chúng ta một số tiện lợi, rất tiện dụng, lập tức có thể nhận được kết quả, lý luận quá thâm sâu. Trì danh niệm Phật và lý luận này rất giống nhau. Lý của nó rất thâm sâu, Bồ tát Đẳng Giác mà còn không thể thấu triệt rõ ràng, huống là bậc sơ học chúng ta?

Cũng vậy, chúng ta tin tưởng Như Lai chắc chắn có phương tiện tối cao, hóa giải tất cả những tai biến của thiên nhiên. Hiện nay, chúng ta cần thiết vô cùng, chắc chắn có phương tiện cực tốt, giúp cho chúng ta tịnh hóa thân tâm. Có hay không? Có đó! Người niệm Phật nhiều như vậy, niệm đến thân tâm thanh tịnh. Người phiền não nhẹ, trí tuệ lớn, chắc chắn là không ít, nhưng những người này không nổi tiếng nên chúng ta không biết được.

Nếu thật sự có duyên như vậy, thì cần những người như thế nào? Cần những người lãnh đạo đất nước, kế đến là trưởng giả giàu có, người có sự nghiệp lớn, những người này có thể làm được. Đi tìm những người này, cầu hiền hạ sĩ, tìm được mười mấy hai chục người, thành lập cái lớp này, lớp tu học kinh Vô Lượng Thọ. Mỗi kênh phát sóng trên TV, mời những người này đến giảng giải, 24 giờ không gián đoạn. Giảng gì? Giảng kinh Vô Lượng Thọ, giảng 4 điều căn bản. Ngày nào cũng giảng, tôi tin rằng thời gian một năm, người ta sẽ giác ngộ, sẽ hiểu rõ.

Sau khi hiểu rõ, họ mới đoạn ác tu thiện. Những thứ mặt trái không cần nữa, buông bỏ hết, có thể phục hồi Tính đức của chính mình, xiển dương Hiếu Đễ, Trung Tín, Lễ Nghĩa Liêm Sỉ, Nhân Ái, Hòa Bình. Mọi người đều có thể giữ gìn được đức tính này, thì tai nạn hoàn toàn được hóa giải.

Dự ngôn của người xưa chẳng phải là không linh. Câu cuối cùng trong dự ngôn của người xưa, họ nói có hiện tiền hay không, họ nói là có thể, chứ không phải là nhất định. Cuối cùng, có hiện tiền hay không, là do tâm trạng của quý vị có sửa đổi hay không. Buông bỏ tự tư, tự lợi, buông bỏ danh văn, lợi dưỡng, buông bỏ ngũ dục, lục trần, buông bỏ tham, sân, si, mạn. Hết lòng hết dạ vì chính pháp trụ lâu, vì tiêu tai giải nạn, vì hạnh phúc của tất cả chúng sinh. Tâm niệm chuyển đổi như vậy, thì tai nạn sẽ được hóa giải. Như Lai thật sự có cách, chẳng phải là không có.

“Cố tri thượng chi lưỡng thuyết, các hữu sở trọng” (Nên biết hai thuyết nói trên, đều có điểm quan trọng của nó). “Ất, tắc tán tịnh pháp chi phổ bị, đầu tại trước nhãn ư phàm phu” (Đoạn hai thì tán thán pháp môn Tịnh độ phủ khắp các căn, đầu tiên chú trọng ở phàm phu).

Pháp môn Tịnh độ muốn giúp cho chúng sinh sau thời Mạt pháp 9.000 năm, nhân đó được độ. Sau 9.000 năm, tu những pháp môn khác thật sự rất khó. Khó ở chỗ nào? Phải đoạn hoặc. Người nào có năng lực này? Phương pháp của Tịnh Tông. Tập khí phiền não không đoạn, nhưng mà phải khống chế được nó. Khống chế so với đoạn phiền não, thì dễ dàng hơn rất nhiều, chúng ta có thể làm được. Chúng ta thay đổi tâm trạng, không còn tự tư, tự lợi, không còn chấp danh văn, lợi dưỡng, không còn tham, sân, si, mạn, bởi có những thứ này là hại chính bản thân mình nghiêm trọng nhất. Người khác bị hại nhẹ, còn bản thân mình bị hại nặng, chắc chắn đọa địa ngục A tỳ. Thật sự hiểu rõ rồi, thì thấy rằng giáo dục nhân quả rất quan trọng. Người xưa nói rất hay, mọi người tin nhân quả là con đường đại trị thiên hạ; mọi người không tin nhân quả, là con đường đại loạn thiên hạ.

Vì sao nhiều người rất xem trọng nhân quả? Vì nhân nghĩa đạo đức là tốt, khiến con người không làm ác. Vì sao vậy? Vì làm ác cảm thấy hổ thẹn. Do đó, người biết nhục, cảm thấy hổ thẹn, có lỗi với tổ tông, có lỗi với cha mẹ, có lỗi với thầy giáo, nên không muốn làm ác. Nhưng mà nếu như danh cao lợi nhiều, thì họ sẽ động tâm. Rõ ràng, họ biết đó là không đúng, nhưng sức mạnh cám dỗ đó thật sự là quá lớn, không dừng lại được. Họ biết mà cố tình phạm. Phải dùng phương pháp nào đây?

Nếu họ thật sự hiểu được luật nhân quả, thì họ sẽ không làm những việc này. Vì sao vậy? Vì biết được những danh lợi mà mình có trước mắt đây, không tồi, rất cao đấy, nhưng mà phải trả giá quá đắt. Ví dụ như địa vị cao nhất trước mặt, giàu có thiên bách ức, chút xíu là được ngay, sau khi quý vị chết đọa vào địa ngục A tỳ, phải chịu tội một vạn kiếp, thì cái tâm này lập tức sẽ nguội ngay. Vì sao vậy? Đó thật sự gọi là liếm mật trên dao, ngọt một chút đó, nhưng bị đứt lưỡi. Không ai chấp nhận làm những việc này.

Vì thế, thời xưa, cổ thánh tiên hiền giáo hóa nhân dân, dùng ba thứ, thứ nhất là từ đường. Từ đường dạy điều gì? Dạy hiếu, đó là gốc! Dạy Hiếu Đễ, Trung Tín. Thứ hai là Văn miếu, Khổng miếu. Khổng miếu dạy điều gì? Dạy nhân nghĩa đạo đức. Thứ ba là Thành Hoàng miếu. Thành Hoàng miếu dạy giáo dục nhân quả, nói cho quý vị về nhân quả báo ứng. Quý vị giết chúng sinh, chúng sinh sẽ hướng về quý vị đòi mạng. Quý vị thiếu tiền của người, chiếm đoạt tiền bạc của người, quý vị phải trả nợ. Một ngụm một miếng, không sai chút nào, quý vị dám làm không?

Tôi tiết lộ với quý vị một tin, vì sao thế giới Cực Lạc lại hay như vậy? Vì sao thế giới Hoa Tạng lại hay như thế? Chư Phật, Bồ tát ngày nào cũng giảng kinh thuyết pháp ở đó, họ nhận sự giáo dục của đức Phật. Giáo dục của đức Phật, Phương Đông Mỹ tiên sinh cho chúng ta biết, là “sự hưởng thụ cao nhất của con người”. Vì thế, thế giới Hoa Tạng, thế giới Cực Lạc, là nơi giáo dục phổ cập của đức Phật, cho nên ở nơi đó sống một cuộc sống hưởng thụ cao nhất của con người, là cái lý như vậy.

Nếu như thế giới của chúng ta đây mà phổ cập sự giáo dục của đức Phật, thì thế giới của chúng ta cũng chính là thế giới Cực Lạc, cũng chính là thế giới Hoa Tạng. Chẳng phải là làm không được! Thật sự gặp được lãnh đạo giống như chư Phật, Bồ tát, thì chúng sinh sẽ có phúc.

Ở vào thời đại hiện nay, chúng tôi cũng có 10 năm kinh nghiệm, nhất định phải đoàn kết tôn giáo, nhất định phải đề xướng sự hỗ tương học tập giữa các tôn giáo. Đem luân lý, đạo đức, nhân quả của tôn giáo, giáo dục phổ cập đến toàn dân, thì thế giới này tai nạn có thể hóa giải, sự xung đột có thể hóa giải. Xã hội an định, thế giới hòa bình, người dân mới thật sự sống cuộc sống hạnh phúc mỹ mãn. Đó chính là phổ bỉ của tịnh pháp.

Trước mắt là đối với phàm phu, đối với nhân dân trên toàn thế giới, hy vọng người dân trên toàn thế giới đều sống cuộc sống hạnh phúc mỹ mãn. Vì thế, lời nói của Thang Ân Tỷ rất có lý, chỉ có học thuyết của Khổng Mạnh và giáo lý Đại thừa, bây giờ chúng ta phải thêm vào một câu, cần liên hợp tôn giáo trên toàn thế giới, phải đề xướng giáo dục tôn giáo, phải đề xướng đại học tôn giáo, đại học đa nguyên văn hóa, để nuôi dưỡng chất thầy giáo. Giáo hóa chúng sinh, vẫn phải đặt nền giáo dục lên hàng đầu, mới có thể giải quyết được vấn đề.

“Bính, tắc hiển trì danh chi thâm diệu, triệt để thừa đương duy thượng căn” (Đoạn ba thì nói rõ sự sâu diệu của Trì danh, người thượng căn mới thừa hành đảm đương triệt để). Đây là sự thật, “cố ứng hội thông, mạc tử cú hạ” (cho nên xem kinh là phải linh động hội thông ý nghĩa của nó, không thể chấp chặt vào ngôn ngữ văn tự).

Trong khai kinh kệ nói, “Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”. Câu này rất quan trọng. Trong mỗi câu mỗi chữ đều có rất nhiều ý nghĩa. “Người nhân thấy nhân, người trí thấy trí”, tùy vào trình độ của quý vị. Người cạn cợt, thì thấy cạn cợt. Người sâu sắc, thì thấy sâu sắc. Như thế, chúng ta học bộ kinh này mới thật sự có tác dụng. Tác dụng thứ nhất là thân tâm khỏe mạnh, thọ mà không già. Đó là tác dụng thứ nhất đối với chính mình. Tác dụng thứ hai là có thể hóa giải một số tai nạn tự nhiên hiện nay. Nó có thể hóa giải, có thể giúp cho xã hội này phục hồi lại sự an định hòa bình. Bắt đầu làm ngay từ bản thân chúng ta, từ đạo tràng nhỏ này của chúng ta. Những người sống trong đạo tràng nhỏ này mà không thể hữu nghị với nhau, thì quý vị có thể giúp đỡ người khác sao? Quý vị có thể hóa giải được tai nạn sao? Không thể được! Những người không thể sống cùng nhau này, thì phải làm sao đây? Chúng ta làm tròn bản phận của mình là được rồi. Hành vi của người khác như thế nào, quý vị không cần phải lo, đã có ông trời lo rồi.

Chúng tôi nghe thấy ông trời sẽ bắt người tâm hành bất thiện, những tai nạn bắt người, ôn dịch bắt người. Tôi nghĩ trong tương lai, nạn ôn dịch chắc là rất nghiêm trọng. Hiện nay, đã xuất hiện rồi, ôn dịch phát tác, đại khái khoảng 3 đến 4 giờ đồng hồ là chết, không có thuốc cứu.

Tôi cũng nghe nói, người có tâm địa từ bi lương thiện, sẽ không bị lây nhiễm ôn dịch. Cái lý giống như các nhà khoa học nói vậy, con người thật sự có tình thương, thì sức miễn dịch của họ sẽ nâng cao. Bất cứ virut bệnh nào đến họ, họ cũng không bị lây. Nếu như phẫn nộ, bất bình, oán hận, sẽ rất dễ bị lây bệnh. Những đạo lý này chúng ta đều hiểu, cho nên nhất định phải phát Bồ đề tâm, phải dùng tình thương, yêu thương tất cả chúng sinh.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 49)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 48)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 47)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 332
    • Số lượt truy cập : 8549824