Thông tin

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH GIẢI DIỄN NGHĨA - TẬP 43

 

 

Chủ giảng: LÃO PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG

*****

Trưởng ban biên dịch:

TK. Thích Đồng Bổn

 

QUYỂN 5

(Tập 41-50)

 

TẬP 43

 

Giảng ngày 18 tháng 5 năm 2010 Tại Tịnh Tông Học Viện Úc Châu

Biên dịch: Tử Hà - Biên tập: Bình Minh

 

Các vị pháp sư, các vị đồng học, mời xem tiếp Đại thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang 45, dòng thứ 2.

Đây là đoạn cuối cùng của Sở Bị Căn Khí (Căn khí được cho).

Cái thử pháp môn xảo bị chư căn, như Yếu Giải vân, thượng thượng căn bất năng du kỳ khổn, hạ hạ căn diệc năng trăn kỳ vực, phàm thánh kỳ thu, lợi độn tất bị (Vì pháp môn này khéo gia bị các căn, như Yếu Giải nói: Hạng thượng thượng căn không thể vượt qua giới hạn, hạ hạ căn cũng được đến nơi; phàm thánh đều được thu; lợi căn, độn căn đều được gia bị).

Đây là kết luận cuối cùng, tổng kết pháp môn này, thật sự là phương tiện cứu cánh của Như Lai. Cứu cánh ở đây cũng có nghĩa là viên mãn, không hề khiếm khuyết một tí nào. Viên mãn không gì bằng, vì bất kỳ người có căn tính như thế nào đều có thể thích hợp được. Tu học pháp môn này, mọi người đều có thể thành tựu. Điều này, thật không thể nghĩ bàn.

Trong cuốn Yếu Giải, Ngẫu Ích Đại sư nói, “Thượng thượng căn bất năng du kỳ khổn”. Câu này hay, nói rất hay. “Khổn” là gì? Có nghĩa là phạm vi. Quý vị không thể siêu việt phạm vi của nó. Phạm vi của nó quá lớn, khắp pháp giới hư không giới. “Hạ hạ căn diệc năng trăn kỳ vực”. “Trăn” là đạt đến, cũng có thể đạt đến cảnh giới của đức Phật. Ngẫu Ích Đại sư chẳng phải là người bình thường. Ngài viết cuốn Yếu Giải này, tuy chỉ có thời gian 9 ngày, phía sau có Lời bạt. Thời gian 9 ngày là viết xong. Ấn Quang Đại sư tán thán cuốn Yếu Giải này, nói rằng thật sự cổ Phật tái lai, để viết chú giải cho cuốn kinh Di Đà, thì cũng không thể hơn cuốn này được. Lời tán thán này cũng tán thán đến đỉnh điểm.

Năm xưa, tôi ở Singapore, có một lần pháp sư Diễn Bồi đưa ra vấn đề này để hỏi tôi. Thầy ấy nói, lời Ấn Quang Đại sư tán thán cuốn Yếu Giải, có phải là hơi quá chăng? Tôi trả lời thầy ấy rằng, tôi nói sự tán thán của Ngài Ấn Quang, không hề quá đáng chút nào, Ngài đã tán thán rất hợp lý, đó là lời chân thật.

Đời này chúng ta may mắn, còn gặp được thắng hội như thế, chỉ cần có thể tin được, chân tín, y giáo phụng hành, thì đời này cũng có thể đạt đến Thật Báo Trang Nghiêm Độ của Di Đà Như Lai. Vì thế, Ngài Ngẫu Ích Đại sư tán thán kinh Di Đà, cũng giống như Ấn Quang Đại sư tán thán Yếu Giải vậy. Các Ngài đều tán thán đến độ viên mãn, tán thán đến độ cứu cánh như thế. Chỉ cần có một chút xíu thiện căn, sau khi gặp được là có thể sinh tâm hoan hỷ rồi, phát nguyện y giáo phụng hành, cho nên pháp môn này thật sự là phàm thánh tề thu. Lợi là thượng căn, độn là hạ căn; lợi căn hay độn căn đều có phần cả.

“Di Đà Sớ Sao vị thử pháp môn vi tận nhiếp lợi độn chư căn, tất giai độ thoát” (Di Đà Sớ Sao nói pháp môn này là thu nhiếp hết các căn lợi, độn, thảy đều độ thoát). Đây là lời dạy của Đại sư Liên Trì. Trong Trung Hưng Tam Đại Sĩ của Tịnh Độ Tông, Đại sư Liên Trì là vị thứ nhất, kế đến là Ngẫu Ích Đại sư, tiếp theo là U Khê Đại sư, viết cuốn Viên Trung Sao. Cuối nhà Minh sang đầu nhà Thanh, Tịnh Tông được phục hưng, có 3 vị đại sư này.

Trong cuốn Sớ Sao nói: “Thu nhiếp hết các căn lợi, độn, thảyđềuđộthoát”, là nói tất cả căn tính, từ thượng thượng căn đến hạ hạ căn đều được độ thoát. Những lời này đều là nói về phương tiện cứu cánh.

Đại sư Liên Trì nói: “Chư dư pháp môn” (Các pháp môn khác), muốn nói là 84.000 pháp môn, vô lượng pháp môn đều bao gồm trong đây. Ngoài pháp môn Tịnh độ, thì gọi là các pháp môn khác, “Cao chi tắc hạ cơ tuyệt phân, ti chi tắc bất bị thượng căn” (Cao thì hạ căn không dự phần, thấp thì thượng căn không được cho). Đức Thế Tôn khi còn tại thế, mỗi ngày đều giảng kinh thuyết pháp. Ngài nói rất hay, đều là những lời nói chân thật, không giả dối, nói pháp không nhất định.

Người có trình độ cao, thì nói pháp cao cho họ. Người có trình độ thấp, thì nói cho họ pháp môn cần tu học trong cuộc sống hàng ngày. Vì người mà khác, vì thời mà khác, vì nơi chốn mà khác, vì sự việc mà khác, không có pháp nhất định. Vì vậy, chỉ cần thấy được đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thì chắc chắn quý vị được mãn nguyện. Đó là điểm tuyệt vời của đức Phật. Tất cả pháp Ngài nói ra, bất luận là cao thấp, sâu cạn, đều từ tự tính lưu xuất ra. Đức Phật không bao giờ nói rằng, xem con người này, mình nên nói gì với họ. Đức Phật không có tâm niệm như vậy. Vừa tiếp xúc là hiểu rõ, là thông đạt rồi. Quý vị hỏi hay không hỏi, Ngài cũng đều biết hết. Quý vị đang nghĩ điều gì, quý vị muốn cầu điều gì, quý vị muốn được điều gì, Ngài hoàn toàn biết rõ. Đức Phật một đời hằng thuận chúng sinh, tùy hỷ công đức.

Trong kinh Lăng Nghiêm nói: “Tùy chúng sinh tâm, ưng sở tri lượng” (Tuỳ tâm chúng sinh, mà tương ứng theo lượng hiểu biết). Đức Phật thật sự làm đến chỗ tùy duyên bất biến. Trong Hoàn Nguyên Quán nói là “tùy duyên diệu dụng”.

Đức Phật trụ thế 80 năm, thị hiện cho chúng ta thấy tùy duyên diệu dụng. Tuyệt hay! Diệu ở đây chính là hằng thuận chúng sinh, tùy hỷ công đức. Do đó, pháp môn cao, thì bậc căn cơ trung, hạ không hiểu; giảng những điều thật là nông cạn, thì bậc thượng thượng căn không thích nghe. Giống như ngày nay, quý vị dạy học vậy. Quý vị đối mặt với học sinh lớp nghiên cứu sinh, thì những học sinh bậc trung học và tiểu học không thích nghe, họ bỏ đi hết, vì quý vị giảng quá sâu. Quý vị giảng quá nông cạn, là quý vị dạy những học sinh trường mầm non. Học sinh đại học đứng bên cạnh cười rồi bỏ đi, họ cũng không nghe. Vì sao vậy? Vì không khế cơ. Vì thế, đức Phật nói kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa, đây là kinh Nhất thừa. Cao! Các vị A La Hán và Thanh Văn đều rút lui, họ nghe không hiểu.

Dưới đây, đưa ra một ví dụ: “Thị dĩ Hoa Nghiêm như manh, huỳnh quang tăng kết” (Vì thế, ở Hội Hoa Nghiêm như mù, như ánh sáng đom đóm). Đức Phật giảng kinh Hoa Nghiêm, bậc A La Hán nghe không hiểu, như mù như điếc. Bậc A La Hán chẳng phải là không có trí tuệ, nhưng trí tuệ rất ít, như huỳnh quang vậy, như ánh sáng của con đom đóm vậy. Dưới nền ánh sáng mạnh, thì ánh sáng này không lóe lên được, không hiển thị được, cho nên 5.000 vị Tỷ khiêu rời toà.

“Duy chỉ nhất pháp, thượng hạ kiêm thu. Khả vị vạn bệnh dũ ư a già thiên khí thành ư cự dã” (Duy chỉ một pháp này, thượng hạ căn đều thu phục. Có thể nói là thuốc A già đà chữa lành muôn bệnh, là lò nung thành ngàn đồ đựng). Hai câu này là ví dụ, trong tất cả các pháp môn, chỉ có pháp môn này là đặc biệt, căn cơ nào cũng đều có thể nhiếp thụ được.

Bậc thượng thượng căn nghe pháp môn này nghe thấy rất ý vị, quyết định muốn cầu sinh Tịnh độ, muốn thân cận Phật Di Đà, như các vị Bồ tát Đẳng Giác, Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm, Thế Chí. Bậc hạ hạ căn như các ông, các bà già không biết chữ, không được ăn học, nghe rồi cũng rất hoan hỷ. Câu A Di Đà Phật không khó niệm, ai ai cũng biết niệm. Chỉ cần chân thật niệm, thì chẳng có ai không được vãng sinh, sinh về thế giới Tây Phương Cực Lạc, thì bậc hạ hạ căn cũng có thể đạt đến cảnh giới đó.

Thế giới Tây Phương Cực Lạc tuy có 4 quốc độ, nhưng trong 4 quốc độ này, không có giới hạn, không có chướng ngại, một sinh tất cả sinh, sinh về Phàm Thánh Đồng Cư Độ; hạ hạ phẩm vãng sinh, đồng thời cũng sinh về Phương Tiện Độ, Thật Báo Độ. Vì sao vậy? Vì trong Phương Tiện Độ, các vị Bồ tát đó đã thấy được, sống cùng người này, các vị Bồ tát Đẳng Giác trong Thật Báo Độ cũng sống chung với người này, cùng học trong một lớp, một là tất cả, tất cả là một. Đó là điều không thể thấy được trong tất cả quốc độ của chư Phật ở mười phương.

Khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng dạy, có trình độ cao thấp không đều, nhưng cùng học chung. Ngày xưa, trường học tư thục, tuổi tác của học sinh không bằng nhau, từ 6, 7 tuổi đến 18, 19 tuổi. Tuổi tác không bằng nhau, trình độ không giống nhau, nhưng cùng học chung một lớp. Chế độ trường học ngày nay đã chia ra tiểu học, trung học, đại học, lớp học cũng chia ra, không như ngày xưa. Ngày xưa hoàn toàn không chia ra, cùng học chung trong một lớp. Thế giới Tây Phương Cực Lạc vẫn như vậy, không hề thay đổi. Thế giới của chúng ta thay đổi, nhưng thế giới Cực Lạc không thay đổi. Quý vị nghĩ thử xem không thay đổi là cái lý gì vậy? Chẳng lẽ nơi đó không tiến bộ? Rốt cuộc sự thay đổi của chúng ta ngày nay là tiến bộ hay là thoái bộ? Phải nghiêm chỉnh tư duy, dùng tâm quan sát, vì sao thế giới đó vẫn không thay đổi?

“Thuốc A già đà chữa lành muôn bệnh, là lò nung thành ngàn đồ đựng”. Ví dụ này rất hay. Ở Ấn Độ ngày xưa, có một loại thuốc, gọi là thuốc A già đà. Thuốc này giống như vạn linh đơn mà dân gian thường nói, bệnh gì cũng có thể chữa được, không hề có tác dụng phụ, có thể chữa được vạn bệnh; các loại đồ đựng không giống nhau, nhưng đều được đúc ra từ một cái lò.

“Hựu đản trì Phật danh, tất sinh bỉ quốc, tắc hoặc cao hoặc hạ, hoặc phàm hoặc thánh, nãi chí hoặc tín hoặc nghi, hoặc tán hoặc hủy, tri hữu bỉ Phật, tiện thành thiện căn, đa kiếp đa sinh, cụ mông giải thoát” (Lại, chỉ trì danh hiệu Phật nhất định vãng sinh nước kia, thì cao, thấp, phàm, thánh, cho đến tin, nghi, khen, chê hễ biết có đức Phật kia, liền thành thiện căn, nhiều kiếp nhiều đời, đều được giải thoát). Câu này vẫn là trong Sớ Sao nói.

Cao thấp là nói về căn tính. Hiện tại chúng ta đây, bất luận là trình độ của quý vị cao, hay thấp, hoặc quý vị là Thánh nhân, A La Hán, Bồ tát, phàm phu gồm thiên, nhân, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục, hoặc là quý vị tin hay nghi, cũng được vãng sinh.

Làm sao mà nghi cũng được vãng sinh? Hoài nghi mà thật tu, chân thật niệm. Họ niệm với cái gì? Họ niệm với tâm hoài nghi, niệm chết bỏ, xem có thể được vãng sinh hay không. Không được vãng sinh thì thôi, còn được vãng sinh thì chẳng phải là tốt sao? Họ niệm Phật với tâm niệm như thế. Sự siêng năng của họ tuyệt đối không kém gì người khác, cho nên họ đã thành công, sinh về thế giới Tây Phương Cực Lạc. Nghi mà thành về biên địa cũng không thoái chuyển. 500 năm nữa, thì họ sẽ giác ngộ, đoạn hết nghi hoặc. Nghi hoặc đoạn rồi, thì nhập vào phẩm vị. Phẩm vị nào? Cũng không nhất định, phải xem sự công phu của người đó. Vì vậy, thật sự thành tựu, tam bối cửu phẩm trong 4 cõi quốc độ đều ở trong một niệm. Sau khi đoạn hết nghi, nhất niệm của người đó, công phu của tâm niệm đó nếu như sâu, thì phẩm vị lập tức được nâng cao, được thăng tiến. Nó không phải là từng cấp bậc, từng cấp bậc, có thể một lần mà nâng phẩm vị lên rất cao. Đó là mỗi con người chúng ta căn tính không giống nhau.

“Hoặc khen hoặc chê”. Quý vị có thể khen hoặc chê Phật A Di Đà. Khi không hiểu rõ, quý vị hủy báng, nhưng gặp được thiện hữu, giảng giải cho quý vị, quý vị hiểu rồi, quý vị sẽ sám hối, quý vị sẽ tán thán. Bất luận là hủy báng hay tán thán, quý vị biết có Phật A Di Đà, thì trong thức A Lại Da của quý vị sẽ có chủng tử Phật A Di Đà. Đó chính là thiện căn. Đời này không thể thành tựu, tái sinh đời sau “nhiều kiếp nhiều đời, đều được giải thoát”. Quý vị có thiện căn này, sau này gặp được thiện duyên, chắc chắn quý vị vãng sinh Tịnh độ. Vì thế, trong pháp môn này thường nói rằng: “Nhất lịch nhĩ căn, vĩnh vi đạo chủng” (Một khi nghe lọt vào tai… mãi mãi thành hạt giống đạo).

Quý vị thấy được hình tượng của Phật A Di Đà, biết được vị Phật này là Phật A Di Đà, nghe thấy âm thanh niệm Phật, nghe thấy lời đọc tụng kinh điển, đều hình thành chủng tử trong thức A Lại Da. Chủng tử này, chư vị Tổ sư gọi là chủng tử kim cương, vĩnh viễn bất hoại.

Sau này, kiếp nào đó, quý vị được thân người, lại gặp được pháp môn này, là có thể thành thục. Quý vị học theo pháp môn Tịnh Tông cần nên biết, chúng ta gặp được pháp môn này, chắc chắn không phải chỉ kiếp này mới nghe thấy. Trong kiếp quá khứ, nhiều đời nhiều kiếp, không biết đã gặp được bao nhiêu lần rồi, mới có được thiện căn ngày nay, vừa nghe thấy là hoan hỷ, vừa nghe thấy là có thể chấp nhận. Điều này nói lên trong kiếp quá khứ, đối với pháp môn này, quý vị đã quen thuộc lắm rồi. Vì sao khi đó không được giải thoát?

Chỉ có một nhân tố, là không buông bỏ tình chấp. Đối với thế gian này, vẫn còn nhớ. Nặng nhất trong sự nhớ đó chính là tình chấp, quý vị không buông bỏ nó được. Giống như thầy Lý từng nói, quý vị sẽ không thể tránh khỏi trường kiếp luân hồi, quý vị ở trong luân hồi lục đạo, không dễ gì gặp được Phật pháp. Quý vị nghĩ thử xem, nếu như kiếp sau quý vị được thân người, toàn thế giới có hơn sáu mươi ức người, quý vị là một trong số đó, quý vị sinh ở khu vực nào? Quý vị có cơ hội gặp được Phật pháp hay không? Nghe được Phật pháp, nghe nói có vị Phật, nghe nói có Phật giáo, quý vị biết được pháp môn Tịnh độ chăng? Không dễ đâu, rất khó, rất khó đấy! Còn khó hơn trúng số độc đắc nữa, cho nên đời này chúng ta thật sự đã trúng số độc đắc, nhất định quý vị phải nắm bắt lấy.

Thật sự có thể nắm bắt được, thì đời này chắc chắn quý vị thành tựu. Pháp môn này rộng lớn, không cần chấp vào căn tính gì. Quý vị nói tôi tu không giỏi. Tu không giỏi cũng có thể đi được, chỉ cần thật sự có thể buông bỏ vạn duyên, những chuyện tạp nhạp của thế gian này không còn vướng mắc nữa. Vướng mắc những việc này, nghĩa là nguồn gốc của lục đạo luân hồi, quý vị vẫn chưa đoạn. Chuyện gì cũng phải buông bỏ, trong tâm chỉ có Tây phương Tịnh độ, chỉ có Phật A Di Đà, thì chắc chắn quý vị được vãng sinh, chắc chắn một đời được thành tựu.

Cuối cùng, có tổng kết rất hay: “Chí ư đương thế, nhược vấn hà nhân chính thị đương cơ” (Đến như đời nay, nếu hỏi người nào đích thị là căn cơ phù hợp?). Ngày nay, chúng ta giảng kinh Vô Lượng Thọ, đương cơ của kinh Vô Lượng Thọ, bất luận là nam nữ, lớn nhỏ, giàu sang, nghèo hèn, thượng trí, hạ ngu, tu lâu, mới tu, lợi, độn đời trước, thiện, ác sai biệt, không cần hỏi về những thứ đó.

“Chỉ yếu ư thử pháp môn năng sinh thật tín” (Chỉ cần có thể thật tin pháp môn này). Then chốt của câu này ở chỗ “thật tin”, không hề có một chút hoài nghi nào. “Thật tin phát nguyện”, quý vị phải thật tin mới thật sự muốn cầu sinh Cực Lạc, muốn về thế giới Cực Lạc.

Thế giới Cực Lạc ở đâu? Trong 3 kinh Tịnh độ đều giới thiệu với chúng ta về thế giới Cực Lạc. Chúng ta nên suy nghĩ thế nào về 3 kinh này? Trong đó, nói về quê hương của chúng ta. Phật A Di Đà giống như cha mẹ của chúng ta. Các thượng thiện nhân và vô lượng vô biên Bồ tát, Đẳng Giác, giống như anh em chúng ta vậy. Bản thân chúng ta không biết, bỏ nhà ra đi, chịu nhiều sự đau khổ như thế, bây giờ biết được, nên gấp rút quay về, đừng chịu những sự khốn khổ ngoài nữa, oan uổng, không đáng!

“Tòng nguyện khởi hành” (Từ nguyện phát khởi hành). Hành cách nào đây? “Phát Bồ đề tâm. Nhất hướng chuyên niệm”. Bồ đề tâm là tâm giác ngộ, không còn mê hoặc nữa. Nhất tâm nhất ý cầu sinh Tịnh độ. Tâm ở đây chính là đại Bồ đề tâm. Một phương hướng là Tây Phương, một mục tiêu là thế giới Cực Lạc. Một lòng một dạ muốn thân cận đức Phật A Di Đà, người như thế đúng là đương cơ.

Chúng ta suy nghĩ thử xem, chúng ta có muốn làm người như vậy hay không? Nói cho quý vị biết, làm người như thế không khó đâu. Việc khó ở thế gian này là cầu người khó, lên trời khó. Cầu người khó, nên chuyện này là cầu chính mình, không cầu người khác. Bản thân mình thật sự hiểu rõ ràng minh bạch, thì vấn đề được giải quyết thôi. Vì vậy, vãng sinh về thế giới Cực Lạc, việc cần thiết nhất là gì? Nghe kinh.

Khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, 49 năm giảng kinh thuyết pháp, chẳng ở không một ngày nào. Đó là gì? Đó chính là từ bi tế thế, phổ độ chúng sinh. Hóa giải tai nạn của chính quý vị, bần cùng, khốn khổ, tật bệnh của quý vị, những việc bất hạnh xảy ra trong gia đình quý vị, kinh điển sẽ dạy quý vị. Ngày nay, xã hội hỗn loạn, tai biến khác thường, nếu quý vị thật sự nghe kinh, thì quý vị có thể hóa giải được. Đức Phật đối với tất cả chúng sinh, có tâm từ bi vô tận, trí tuệ vô tận đều nằm trong kinh điển.

Quý vị không nghe kinh, quý vị sẽ không hiểu được. Quý vị không nghe kinh, quý vị sẽ không buông bỏ. Nếu quý vị hiểu rõ ràng minh bạch Phật pháp trong kinh điển, chẳng cần khuyên mà tự nhiên quý vị buông bỏ, không còn lưu luyến nữa, bởi vì quý vị hiểu rõ, quý vị giác ngộ rồi. Quý vị không chịu buông bỏ những thứ đó đều là rác rưởi, những thứ đó đều là sai lầm. Quý vị buông bỏ rồi, thì quý vị sẽ quay trở lại Chân Thành, Thanh Tịnh, Bình Đẳng, Từ Bi. Quý vị sẽ quay về, đó là điều tự tính vốn sẵn có. Trí tuệ của quý vị hiện tiền, quý vị mới thật sự có năng lực giúp cho tất cả những chúng sinh khổ nạn.

Có thể giúp cho người khác, thì đương nhiên là có thể giúp cho chính mình, giúp cho chính mình trong đời này viên thành Phật đạo. Chúng ta không cần phải kéo dài thời gian như thế. Hôm nay, quả nhiên hiểu rõ ràng minh bạch, thì bây giờ đây chúng ta đã đồng tâm với Phật A Di Đà rồi. Phật A Di Đà là tâm gì? Là tâm Chân thành, tâm Thanh tịnh, tâm Bình đẳng, tâm Chính giác, tâm Từ bi. Đây là tâm của Phật A Di Đà. Ta tương đồng với Ngài, đồng một nguyện vọng với Phật A Di Đà, “chúng sinh vô biên thệ nguyện độ”.

Cụ thể của nguyện vọng này, chính là 48 đại nguyện mà bộ kinh này nói. Trong phẩm thứ 6 nói, đồng nguyện với Phật A Di Đà, đồng giải với Phật A Di Đà. Bộ kinh này thật sự hiểu rõ ràng minh bạch. Nhất hướng chuyên niệm, là đồng hạnh với Phật A Di Đà.

Quý vị xem quý vị có 4 cái đồng với Phật A Di Đà: đồng tâm, đồng nguyện, đồng giải, đồng hạnh. Đây chính là hoàn toàn tương ưng, nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật, niệm niệm tương ưng niệm niệm Phật, quý vị không vãng sinh, thì ai vãng sinh chứ! Bốn cõi tam bối cửu phẩm, xem tâm lượng của quý vị. Nếu quý vị còn vì mình, vì chúng sinh trên địa cầu này, quý vị sinh về Phàm Thánh Đồng Cư Độ. Chuyện nhỏ mà!

Nếu như bây giờ, tâm lượng của quý vị mở ra. Niệm niệm của tôi đều vì tất cả chúng sinh trong khắp pháp giới, hư không giới, tôi không phải vì hệ ngân hà, tôi không phải vì hệ thái dương, tôi tuyệt đối chẳng phải chỉ vì quả địa cầu này, quý vị về thế giới Tây Phương Cực Lạc, chắc chắn sinh về Thật Báo Trang Nghiêm Độ, nhờ tâm lượng lớn như thế. Tâm lượng nhỏ, chỉ có quả địa cầu, ngoài địa cầu ra vẫn chưa nghĩ tới, đó là Phàm Thánh Đồng Cư Độ. Vì thế, tam bối cửu phẩm là xem tâm lượng của quý vị, chứ không xem cái khác. Người thế gian chúng ta nói, yêu người, yêu mình, yêu cha mẹ, yêu con cái, yêu thân bằng quyến thuộc, từ từ rộng ra đến bên ngoài.

Những vị Bồ tát thật sự giác ngộ, tình thương của các Ngài là sát độ vi trần trong hư không pháp giới. Tình thương đó có đầy trong tự tính, cho nên sức mạnh của các Ngài rất lớn. Tâm niệm đó có thể chuyển cảnh giới. Cảnh tùy tâm chuyển đã hiện ra rất rõ. Trên thân của mình, quý vị có thể thấy được, nó không bị bệnh. Vì sao vậy? Tất cả những tế bào mang bệnh đều phục hồi trở lại bình thường.

Các vị nên biết rằng, Chân thành, Thanh tịnh, Bình đẳng, Từ bi, những thứ đó là bình thường, là trong tự tính của quý vị vốn sẵn có. Tham, sân, si, mạn, nghi, tự tư, tự lợi, danh văn, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần, không có trong tự tính. Trong tự tính không có, nhưng chấp trước là có. Nó sẽ sinh ra phiền phức, khiến cho tế bào trên cơ thể quý vị mang mầm mống bệnh tật, mang mầm bệnh độc, bị bên ngoài truyền nhiễm thì sẽ đổ bệnh. Nếu như quý vị thay đổi tâm trạng của mình, thường xuyên niệm trong tự tính và Tính đức hoàn toàn tương ưng, Chân thành, Thanh tịnh, Bình đẳng, Chính giác, Từ bi. Niệm những thứ này, chính là phát Bồ đề tâm, những tế bào mang mầm bệnh hoàn toàn phục hồi lại bình thường.

Thật sự bình thường, hoàn toàn giống như chư Phật, Bồ tát không khác. Thân tâm của quý vị mạnh khỏe, người xưa thường nói già mà không suy. Quý vị sống đến 100, 200 tuổi, tình trạng cơ thể của quý vị giống như người trẻ vậy, không suy vì quý vị đã phát Bồ đề tâm. Tâm làm chủ, chứ chẳng phải cái khác làm chủ đâu. Rộng ra hơn nữa, ngày nay chúng ta nói sơn hà đại địa, nói về tai hại tự nhiên, nguyên nhân từ đâu? Vẫn là tâm của chúng ta. Vì sao vậy? Vì cảnh tùy tâm chuyển. Khi tôi còn trẻ, khoảng hai, ba mươi tuổi, câu này trong xã hội có rất nhiều người nói, thường nghe thấy, “Phúc nhân cư phúc địa, phúc địa phúc nhân cư” (Người có phúc ở nơi cát địa, nơi cát địa có người có phúc ở).

Con người chỉ cần tu phúc, quý vị sống ở chỗ này, nơi đây không có phúc báo. Nói theo phong thủy, thì nơi đó chẳng phải là nơi phong thủy tốt, nhưng quý vị là người có phúc ở đó 3 năm, thì phong thủy ở nơi đó sẽ chuyển biến, tự nhiên biến thành nơi phong thủy tốt. Vì sao vậy? Vì người có phúc, có phúc có tuệ, cảnh tùy tâm chuyển. Đó là sự thật. Con người nếu không có phúc, khởi tâm động niệm tự tư, tự lợi, thị phi, nhân ngã, tham, sân, si, mạn, làm trái lại với luân lý đạo đức, người này không có phúc. Dù nơi đó có phong thủy tốt chăng nữa, rơi vào tay người này 3 năm, thì nơi này cũng hóa thành xấu. Có nhiều thứ gọi là tai hại tự nhiên sẽ phát sinh. Những lời này là của người xưa truyền lại.

Trải qua sự khảo nghiệm ngàn vạn năm, chứng minh cho thấy lời nói này không sai. Đó là sự thật. Trong truyền thống văn hóa của nhiều nơi, ở trong Phật pháp Đại thừa, không có gì chẳng là “hành hữu bất đắc, phản cầu chư kỷ”, tuyệt đối không hướng ra ngoài cầu. Có vấn đề, cá nhân mình có vấn đề, bị tật bệnh, gia đình gặp khó khăn, sự nghiệp gặp phải trắc trở, môi trường chúng ta sinh sống gặp phải khó khăn. Phải làm sao đây? Phản tỉnh, chắc chắn có lỗi lầm, chắc chắn có nghiệp lực bất thiện. Nghiệp lực bất thiện chiêu cảm ra thiên tai.

Cổ thánh tiên hiền dạy chúng ta, sám trừ nghiệp chướng. Nghiệp chướng sám trừ rồi, thì chúng ta sẽ thông đạt vô ngại. Thông với ai? Trong tôn giáo của Tây phương nói, thông với chủ tạo vật, trong Phật pháp nói chúng ta thông với tự tính. Trong nhân gian ngày xưa nói, thông với thánh hiền, thông với quỷ thần, vấn đề được hóa giải. Trong kinh này nói thật sự chỉ có 8 từ: “Phát Bồ đề tâm. Nhất hướng chuyên niệm”, vấn đề được giải quyết.

Khi tôi giảng kinh, đã nói qua rất nhiều lần, các nhà khoa học nói cho chúng ta biết, tổ chức thân người này của chúng ta do tế bào hợp thành. Những tế bào này, hàng ngày đều thay cũ đổi mới. Tế bào già tiêu mất, tế bào mới sinh ra. 7 năm là một chu kỳ, hàng ngày đều thay đổi, giống như cơ khí đổi linh kiện vậy. Cứ 7 năm đổi một lần, đổi hết toàn bộ, thì sao không đổi cái mới? Vì sao không đổi cái tốt? Con người khi về già rồi, tế bào không còn tốt nữa, có nghĩa là nó không đổi linh kiện tốt, nó đổi linh kiện bình thường, nó đổi linh kiện xấu, cho nên cơ thể càng ngày càng xấu.

Tổng chỉ huy cho việc đổi linh kiện này rốt cuộc là ai vậy? Là ý niệm, tâm niệm của quý vị. Quý vị xem con người đến 60, 70 tuổi, già rồi, hàng ngày đều nhắc đến già, cho nên những tế bào thay đổi đó, tế bào mới hoàn toàn là tế bào già. Tất cả trong đó đều mang theo mầm mống bệnh. Già rồi thì phải sinh bệnh thôi. Đều do ý niệm của quý vị đổi lại đó.

Quý vị nghĩ thử xem, quý vị có thể tìm được một người 70, 80 tuổi, ngày nào người đó cũng nghĩ mình mới khoảng 18, 20 tuổi, họ có suy nghĩ như vậy không? Không có. Nếu thật sự họ suy nghĩ như vậy, tôi tin rằng những tế bào họ đổi lại đều khoảng 10, 20 tuổi thôi. Vì sao vậy? Vì sự sinh diệt của tất các tế bào, đều nằm trong sự chỉ đạo của ý niệm. Nguyên nhân là ở chỗ này. Có người bị lão hóa chậm một chút, có người bị lão hóa nhanh một chút. Nguyên nhân gì vậy? Đều do ý niệm.

Ngày xưa, tôi ở Đài Loan, có rất nhiều bạn. Mọi người đều có việc làm, bận rộn với công việc, thường quên mất tuổi tác của mình. Công việc rất bận rộn, hàng ngày nghĩ đến công việc. Đến năm mươi mấy tuổi, 60 tuổi nghỉ hưu; nghỉ hưu rồi không có việc làm, lúc này nghĩ đến điều gì? Tôi già rồi, xã hội thay cũ đổi mới, thời của mình phải rút lui, để cho lớp trẻ nó lên. Họ nghĩ tới già. 2 năm không gặp, khi chúng tôi gặp lại, tôi thấy mà giật mình, làm như họ già đi mười mấy hai chục tuổi vậy. Nguyên nhân gì vậy? Tâm ý!

Vì thế, các bạn gặp lại tôi, họ rất ngưỡng mộ. Lúc đầu khi tôi học Phật, họ đều cười tôi, đều không đồng ý. Vì sao một người thông minh như vậy lại hồ đồ, lại mê tín như thế? Bị sốc chuyện gì? Vì sao lại đi vào con đường này? Nhưng mà sau khi nghỉ hưu, họ lại tán thán rằng, thầy đi đúng đường rồi! Họ thấy tôi lão hóa không nhiều. Nguyên nhân gì vậy? Tôi không nghĩ đến già, cũng không nghĩ đến bệnh. Ngày nào tôi cũng nghĩ đến những điều trong kinh điển dạy. Tôi muốn nói với quý vị rằng, ngày nào tôi cũng nghĩ đến những thứ này. Kinh giáo vĩnh viễn không già, vĩnh viễn không suy, vĩnh viễn không thay đổi.

Tôi xin thưa với quý vị, chính là cái lý như vậy đó. Quả nhiên sau khi khế nhập, bây giờ tôi có cảm giác, tôi cảm thấy cơ thể của tôi năm nay, so với năm ngoái, năm trước đều rất tốt. Mỗi năm một tốt hơn, động tác không bị suy. Tôi lễ Phật vẫn sát đất không cần dùng tấm đệm. Không nghĩ đến mà! Nghĩ đến già, nghĩ đến suy, nghĩ đến phải có người hầu hạ, thế thì phiền lắm. Tôi không nghĩ đến những điều này.

Có một số cư sĩ bên tôi rất quan tâm đến tôi, nói rằng tôi lớn tuổi rồi, nên tìm một thị giả. Tôi nói không cần, tôi còn lo cho bản thân mình được. Lý Bỉnh Nam lão cư sĩ 95 tuổi, mới đồng ý để mọi người tìm 2 người đến lo cho ông ấy. Trước đó, ông tự mình lo, không suy.

Có năng lực lo cho chính mình, nói lên rằng cơ thể của quý vị không tồi, đâu cần phải người khác lo cho? Lớn tuổi rồi, thì thật sự cử động nên cẩn thận một chút, cử động chậm một chút, không đến nỗi xảy ra chuyện ngoài ý muốn. Khi lớn tuổi, thì nên cẩn thận một chút, động tác, ngôn ngữ đều chậm một chút, càng chậm càng tốt, chẳng ai cười. Những tập khí bồng bột thật sự đoạn hết. Người trẻ, đặc biệt là xã hội ngày nay, thường có những tâm trạng bồng bột, tuy trình độ không đều, nhưng đều có, hiện tượng phổ biến. Bản thân chúng ta nghĩ xem cũng có những tập khí này, nhất định trong cuộc sống hàng ngày phải lưu ý, học điềm đạm.

Quý vị xem tiên sinh Tăng Quốc Phan, ông ta đối với con cháu trong nhà. Gia thư, Gia huấn của ông ấy rất đáng đọc. Gia giáo của ông ấy, từ nhỏ con em đã phải học cách điềm đạm, không được có một chút tập khí bồng bột nào. Đó chính là gia giáo. Ngày nay, cách suy nghĩ đều cạn cợt, không giống như người xưa. Bất luận trong cuộc sống, hay trong công việc, tất cả mọi môi trường đều đang thay đổi, khiến cho chúng ta cảm nhận rõ ràng sự cảnh tùy tâm chuyển. Đây là lời chân thật, không giả dối.

Chương này, chúng ta học đến đây là xong. Tiếp tục chương kế, chương thứ 6, “Tạng giáo sở nhiếp” (Thuộc về Tạng giáo). Thế nào là Tạng giáo? Đoạn đầu giải thích cho chúng ta thấy: “Phàm thể cứu kinh điển, nghi tiên tri thử kinh thuộc ư hà tạng, thuyết tại hà thời, phán thuộc hà giáo, ư thử liễu tri, tắc hữu trợ ư lý giải toàn kinh” (Phàm thể cứu kinh điển, trước nên biết kinh thuộc tạng nào, thuyết thời nào, phân định giáo nào. Biết rõ vậy rồi, sẽ giúp cho lý giải được toàn kinh).

Chương này rất cần thiết, cần nên nói. “Thể” là thể hội, “cứu” là nghiên cứu, ở trong Phật pháp gọi là tham cứu. Tham cứu và nghiên cứu có chỗ nào không giống nhau? Người thế gian nói nghiên cứu; ở trong nghiên cứu có tâm ý thức, là có phân biệt, chấp trước. Còn tham cứu? Tham cứu thì không thể dùng phân biệt, chấp trước. Lìa vọng tưởng, phân biệt, chấp trước gọi là tham. Trong đó, xen tạp vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, thì gọi là nghiên cứu, cho nên nghiên cứu là pháp thế gian, tham cứu là pháp xuất thế gian, hoặc giả nghiên cứu là thế pháp, tham cứu là xuất thế pháp, không giống nhau ở chỗ này.

Tham cứu cách nào đây? Quý vị xem nhiều, nghe nhiều, mà không có phân biệt, không có chấp trước, không có ý kiến, không có phê bình, chúng ta dùng cách nói thông thường gọi là thuần khách quan. Quý vị có phân biệt, chấp trước, có ý kiến phê bình, là quý vị có quan niệm chủ quan ở trong đó. Quan niệm chủ quan là gì? Là kiến thủ kiến và giới thủ kiến trong 5 loại kiến hoặc. Quý vị xem tạp những thứ này ở trong đó, nên gọi là thế gian pháp.

Vì vậy, chúng ta phải học thấy rõ ràng, nghe minh bạch, không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước, không còn phê bình nữa, không biểu thị ý kiến, mới có thể thấy rõ chân tướng sự thật. Đó là trí tuệ đấy. Nếu như xen tạp phân biệt, chấp trước trong đó, thì kiến, văn, giác, tri của quý vị, những điều quý vị thấy là tri thức chứ không phải là trí tuệ. Tri thức và trí tuệ hoàn toàn không giống nhau. Trí tuệ rất vi diệu. Vì thế, người thời nay cầu trí tuệ không dễ dàng đâu, bởi ý kiến của họ quá nhiều, họ thích phê bình, thích phát biểu ý kiến của mình. Toàn là tri thức.

Người thật sự có trí tuệ, người có tu dưỡng, họ thấy mà không mở lời. Quý vị không thỉnh giáo với họ, họ sẽ không nói đâu. Quý vị thỉnh giáo với họ, họ ứng cơ thuyết pháp, xem trình độ của quý vị là gì, quý vị có thể tiếp nhận được bao nhiêu? Học tập ngay trong cuộc sống hàng ngày, chứ không rời cuộc sống đâu, rời cuộc sống hàng ngày thì học ở đâu chứ? 53 tham của Thiện Tài đồng tử là gì? Nghĩa là từ sáng thức dậy cho đến tối đi ngủ, tất cả con người và sự vật sự việc mà quý vị tiếp xúc trong một ngày, chính là 53 tham. Quý vị thấy nam nữ, già trẻ, các hãng các nghiệp, Thiện Tài đồng tử thật sự là tham, quý vị đọc cho kỹ 53 tham này, Ngài đã dùng tâm xem, nghe, và học, không có ý kiến. Sợ nhất là phê bình. Thiện Tài đồng tử chưa bao giờ phê bình, Ngài toàn là tán thán, là cảm ơn. Điều này cần nên học.

Tán thán là nhìn thấy được chân lý, cảm ơn là cảnh giới đưa mình đi lên. Tỷ khiêu Cát Tường Vân là tượng trưng cho Bồ tát Sơ Trụ, Bồ tát Phổ Hiền tượng trưng cho sự viên mãn. Một đời từ Sơ Trụ đạt đến cứu cánh viên mãn, 52 giai cấp. Đây là biểu pháp. Pháp ở trong công việc, trong cách đối nhân xử thế, ở trong cuộc sống hàng ngày. 53 tham là sống chứ không phải là chết, là cuộc sống thực tế. Làm thế nào để ứng dụng Hoa Nghiêm trong cuộc sống hàng ngày? Thiện Tài đã biểu diễn ra. Ở đây, nói bộ kinh này thuộc về tạng nào. Đây là phân loại. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói vào khi nào, phán thuộc về dạy học, dạy học giống như chương trình dạy học của chúng ta ngày nay vậy, nên đặt nó ở trung học hoặc là đại học, nên để vào năm thứ mấy, khi nào thì dạy. Nó là giáo dục. Quý vị hiểu rõ như thế, nó sẽ giúp cho việc lý giải toàn bộ kinh.

“Phù nhất đại thánh giáo chi phán phân, chư gia hữu dị, toát yếu ngôn chi viết, tam tạng, nhị tạng, ngũ thời, nhị giáo dữ tứ giáo, ngũ giáo” (Phàm phân định một đời Thánh giáo, các nhà phân tích có khác nhau. Toát yếu có Tam tạng, Nhị tạng, Ngũ thời, Nhị giáo, Tứ giáo và Ngũ giáo).

Đây là bậc cổ đức chia ra. Tạng có tam tạng, nhị tạng. Kinh này thuộc về tạng nào? Đã thuyết lúc nào? Có vị Tổ sư phân làm 5 thời, mọi người đều chấp nhận. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni một đời giảng kinh thuyết pháp, được chia làm 5 giai đoạn. Khi Ngài khai ngộ, ở trong định 14 ngày (nhị thất nhật) giảng kinh Hoa Nghiêm. Người thế gian không biết được, Tiểu thừa A La Hán cũng không biết được, cho nên hàng Tiểu thừa không chấp nhận sự việc này.

Bồ tát Đại thừa thì biết, người tham dự pháp hội này là 41 vị Pháp thân đại sĩ, vì họ không phải là Pháp thân Bồ tát, nên họ không có năng lực để tham dự pháp hội này, vì đây là vào trong định của Như Lai để nghe pháp. Đại thừa thì xem đây là một thời, thời thứ nhất, Tiểu thừa thì không tính như vậy.

Sau khi đức Thế Tôn xuất định, ở trong vườn Lộc Uyển dạy 5 vị Tỷ khiêu. Hàng Tiểu thừa thì tính từ đây, đây là thời A Hàm. 12 năm giảng A Hàm, đặt ra nền tảng tu học cơ bản. 12 năm này là nền tảng giáo dục, dạy quý vị làm người, dạy quý vị sinh lên cõi Trời, dạy quý vị siêu việt lục đạo luân hồi, đến đây là chấm dứt. Sau 12 năm này, đức Phật giảng Phương Đẳng. Điều này phía sau có đề cập đến. Phân định thuộc giáo nào? Cổ nhân nói có nhị giáo, tứ giáo, ngũ giáo.

“Phàm thích kinh giả, tu tiên phán minh” (Phàm ai giải thích kinh, trước phải phân định rõ thuộc Tạng, Giáo nào). Học tập kinh giáo, vì đại chúng giảng giải kinh điển, nhất định phải hiểu điều này. Bản thân không hiểu những điều này rõ ràng, làm sao quý vị có thể giảng giải kinh điển một cách rõ ràng được.

Ngày xưa, học Thiên Thai, chủ trương Bốn giáo: Tạng, Thông, Biệt, Viên. Học Hoa Nghiêm, lấy Hiền Thủ Đại sư làm tượng trưng. Hoa Nghiêm cũng gọi là Tông Hiền Thủ. Hiền Thủ giảng 5 giáo: Tiểu, Thỉ, Chung, Đốn, Viên. Những điều này quý vị không hiểu rõ ràng, thì quý vị không thể giảng giải được. Người thời nay học kinh giáo không giảng những thứ này, nghĩa Tứ giáo, nghĩa Ngũ giáo đều không nói đến, đều không lý giải được.

Ở vào thời đại ngày nay, chúng ta phải đi theo thời đại, giảng Tứ giáo, giảng Ngũ giáo sẽ khiến cho người ta mơ hồ. Người thời nay rất quý trọng thời gian, tranh nhau từng giây từng phút, quý vị giảng những điều này người ta không thích. Tôi muốn đến để nghe kinh, thầy giảng những thứ này tôi nghe không hiểu, nên họ không đến nữa. Đó là căn tính không tương đồng, thời, địa, người đều không giống, bắt buộc chúng ta phải tùy thuận. Nhưng bản thân mình chẳng thể không hiểu. Nếu quý vị gặp phải một người thật sự trong nghề, hỏi quý vị mà quý vị không biết thì tiêu rồi. Lập tức người ta sẽ nhìn quý vị bằng ánh mắt khác ngay, cho nên bản thân phải hiểu.

Ngày nay giảng kinh, thông thường chúng tôi ở trong giảng đường, cũng không giảng về Tứ giáo, Ngũ giáo. Chúng tôi lấy chúng quy nạp lại thành 3 đoạn.

Thứ nhất là nhân duyên giảng kinh. Vì sao tôi giảng bộ kinh này? Nhân duyên giảng kinh.

Thứ hai là tông chỉ của bộ kinh này, cũng gọi là tông thú. Học bộ kinh này điểm quan trọng là chỗ “minh tông luận dụng”.

Thứ ba là giảng đề kinh, cho nên đơn giản hóa rồi.

Một giờ đồng hồ là có thể giảng rõ ràng về 3 điều này, tiết thứ hai là giảng đến kinh văn rồi. Nếu cứ theo khái yếu chính là huyền nghĩa, chúng tôi giảng chắc khoảng 60, 70 giờ đồng hồ mà vẫn chưa giảng đến kinh văn, và họ sẽ nói: Tôi đến để nghe thầy giảng kinh, chứ không nghe thầy nói càn. Thời gian dài như thế mà vẫn chưa thấy được kinh văn, người ta sợ,̣ bỏ chạy hết.

Cũng may đối diện với chúng tôi ngày nay đều là các đồng tu cũ, nhất là bộ kinh này ngày xưa chúng tôi đã giảng qua 10 lần, đây là lần thứ 11. Lần này, chúng tôi không phải giảng kinh, chúng tôi giảng cuốn Chú giải của Hoàng Niệm Tổ lão cư sĩ. Ngài dùng “thập môn khai khải” của Hoa Nghiêm. Thập môn này, môn nào chúng ta cũng học. Học đoạn này và kết cấu của kinh Hoa Nghiêm giống nhau, Ngài hoàn toàn sử dụng kết cấu của kinh Hoa Nghiêm.

“Kim bản kinh tam tạng trung thuộc kinh tạng” (Nay bản kinh này thuộc Kinh tạng trong Tam tạng). Trong Tam tạng: kinh, luật, luận, nó thuộc về Kinh tạng; trong Nhị tạng: Bồ tát tạng, Thanh Văn tạng, nó thuộc về Bồ tát tạng.

Trong 5 thời, nó thuộc về thời Phương Đẳng thứ ba. Thứ nhất là thời Hoa Nghiêm, thứ hai là thời A Hàm, thứ ba là thời Phương Đẳng. Đức Phật ở thời Phương Đẳng giảng bộ kinh này. Nghĩa là Ngài giảng Hoa Nghiêm 21 ngày, A Hàm 12 năm, Phương Đẳng 8 năm. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sau 12 năm kể từ khi thành đạo đã giảng bộ kinh này, đây là Đại thừa, sự khởi đầu của Đại thừa.

Ở trong nhị giáo: Tiệm Giáo và Đốn Giáo. Tiệm là từ từ từng bước, từng bước, y theo thứ tự mà học tập. Đốn Giáo là siêu việt. Kinh này thuộc về Đốn Giáo.

Trong Tứ giáo: Tạng, Thông, Biệt, Viên của Tông Thiên Thai và Ngũ giáo của Tông Hiền Thủ: Tiểu, Thỉ, Chung, Đốn, Viên. Kinh này đều thuộc Viên Giáo, Đại thừa. Đó là sơ lược cương mục.

Tiếp theo, “Giáp, Tam Tạng Tạng giả, Đại thừa Nghĩa Chương vân, bao hàm uẩn tích danh tạng” (Một, Tam tạng là gì? Luận Đại Thừa Nghĩa Chương nói: Bao hàm, tập hợp, tích chứa gọi là Tạng).

Đây giải thích ý nghĩa của chữ Tạng. Tạng được chia làm ba loại: Một là Kinh Tạng, tiếng Phạn là Tu Đa La, ở đây dịch là Khế Kinh. Kinh ở đây thêm vào một chữ “khế”, bắt buộc phải có đầy đủ 2 điều kiện: Trên khế hợp lý mà chư Phật đã nói, dưới khế hợp căn cơ chúng sinh được độ. Lý mà chư Phật đã nói, là tính, chính là tự tính, chắc chắn nó tương ưng với Tính đức, gọi là khế lý.

Người thời nay nói là chân lý. Chân lý siêu việt thời gian và không gian. Chân lý là vĩnh hằng bất biến. Căn cơ nhất định phải thích hợp với đại chúng xã hội ngày nay, có khả năng học tập. Nếu không học tập được, thì bộ kinh này không gọi là khế cơ. Vì vậy, trong Kinh Tạng có rất nhiều loại kinh, có sâu, có cạn, có kinh thích hợp với trình độ cao, có kinh thích hợp với bậc sơ học, nhưng bộ kinh này tất cả đều thích hợp hết. Người học lâu, lão tu, đến sơ học, 3 loại căn tính thượng, trung, hạ, đều thích hợp hết.

Thứ hai là Luật Tạng. Luật Tạng tiếng Phạn là Tỳ Nại Da, ở đây gọi là Điều Phục. Luật Tạng là giới luật. Điều quan trọng của giới luật chính là quy luật, nhất định cần nên học tập. Những quy luật này đều tương ưng với tự tính, có thể điều phục được tập khí phiền não của chúng ta, quý vị mới có thể tiếp nhận được lời dạy của thánh hiền. Sau khi học tập lời dạy của Thánh hiền, quý vị giác ngộ rồi; sau khi giác ngộ, thì tập khí phiền não của quý vị được hóa giải. Vì thế, giới luật là công phu sơ bộ, sau đó có định, có tuệ. Định, tuệ có thể hóa giải tập khí phiền não của quý vị, hóa giải thành trí tuệ. Mê thì trí tuệ biến thành phiền não. Ngộ thì phiền não biến thành trí tuệ.

Thứ ba là Luận Tạng. Luận là thảo luận, tiếng Phạn là A Tỳ Đạt Ma, Hán ngữ dịch nghĩa là Đối Trị. Đây rất giống nghiên cứu thảo luận mà người thời nay nói. Nghiên cứu thảo luận là trí tuệ, cho nên Luận Tạng là trí tuệ. Đối Trị điều gì? Đối trị sinh tử, đối trị phiền não, đối trị nhiễm ô, phục hồi lại Thanh tịnh, Bình đẳng, Giác.

Quý vị nên biết, đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế giảng kinh thuyết pháp, không phân biệt tỉ mỉ như vậy đâu. Đó là do sau này, chư vị Tổ sư phân ra thôi. Nếu quan sát kỹ, quý vị sẽ hiểu được, trong mỗi bộ kinh đều có Kinh, Luật, Luận. Quý vị xem trong bộ kinh này, những điều trong phẩm thứ 8 dạy: “Khéo giữ khẩu nghiệp, không ghét lỗi người; khéo giữ thân nghiệp, không mất luật nghi; khéo giữ ý nghiệp, thanh tịnh không nhiễm”. Đó là giới luật đấy. Dạy như thế có rất nhiều, cho nên trong mỗi bộ kinh, đều có Kinh, đều có Luật, đều có Luận. Những điều đức Thế Tôn và đệ tử thảo luận đều có hết. Rốt cuộc, phải phân định cách nào đây? Xem phân lượng nhiều ít, xem bộ kinh đó giảng về cái gì nhiều nhất. Kinh giảng về định học. Luật giảng về giới học. Luận giảng về tuệ học, giảng về giới, định, tuệ, dùng cái đó để phân.

Bộ kinh này giảng về định nhiều. Định là niệm Phật Tam muội, giảng về điều này nhiều, cho nên quy về Kinh Tạng. Nếu như giảng nhiều về phương diện giới luật, thì quy về Luật Tạng. Thảo luận, giảng về tuệ nhiều, thì quy về Luận Tạng. Kinh, Luật, Luận được phân ra như vậy, nhưng không có cách nào nhất định phân ra, bởi vì mỗi thứ đức Phật giảng, Ngài đều nói đến.

Tiếp nói về Nhị tạng. “Nhị tạng giả, Trí Độ Luận vân, tuy cụ cầu nhất giải thoát môn, nhi hữu tự lợi lợi nhân chi dị, cố hữu đại tiểu chúng sai biệt, vi thị nhị chủng nhân, cố Phật khẩu sở thuyết, dĩ văn tự ngữ ngôn phân vi nhị chủng, tức Thanh Văn tạng dữ Bồ tát tạng dã, Thánh giáo tuy chúng bất xuất thử nhị” (Nhị tạng là thế nào? Luận Đại Trí Độ nói: Tuy đều cầu đủ một môn giải thoát, nhưng có tự lợi, lợi tha khác nhau, có chúng Đại, Tiểu sai biệt. Vì hai loại người này, nên từ lời Phật nói qua văn tự ngữ ngôn mà phân chia thành 2 loại là Thanh Văn tạng và Bồ Tát tạng. Thánh giáo tuy nhiều, không ngoài 2 tạng này).

Đây là lối phân chia tổng. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế giảng kinh thuyết pháp, phần lớn thì có hai, một là Tiểu thừa, một là Đại thừa. Tiểu thừa là Thanh Văn tạng, giống như bậc tiểu học. Đại thừa là Bồ Tát tạng, giống như bậc đại hoc.

Thời xưa, Trung Quốc hình như không nghe nói đến trung học; đại học ở Trung Quốc còn gọi là thái học. Do đó, ngày xưa chỉ có tiểu học và thái học. Đại khái, trước 12 tuổi đều gọi là tiểu học, đặt nền tảng.

Ở trong đây, vì con người khi tuổi còn nhỏ trí nhớ rất mạnh, ít vọng niệm, tiếp xúc với xã hội bên ngoài không nhiều, giữ được sự trong trắng, trí nhớ tốt nhất, một đời những thứ cần nhớ. Ở trong giai đoạn này đã thuộc hết toàn bộ, đều thuộc rất kỹ, cho nên khi vào trong thái học, thông thường rất ít sử dụng lại sách đã học. Vì sao vậy? Vì thầy giáo thuộc rồi, học sinh cũng thuộc rồi, nhắc tới bộ sách nào thì mọi người đều biết cả. Nếu như quý vị không biết, thì quý vị không thể vào nghe giảng được. Chỉ khi nào quý vị học qua, quý vị học rất thuộc, thì vào trong đó quý vị mới thật sự học được. Vì thế, mọi người học rất vui, học rất hoan hỷ. Học sinh có thể đưa ra vấn đề thưa hỏi thầy giáo, thảo luận cùng các bạn.

Những thứ cần học thuộc, thì trước 12 tuổi đều phải học thuộc hết. Sau này cầu học, thầy giáo đi dạy, không mang theo sách, cũng không mang theo sách tham khảo. Mang theo cái gì đây? Mang theo rượu thịt. Học sinh chọn người gan dạ, thầy giáo dẫn học sinh đi du lịch, đi chơi, những môn chơi đó đều là dạy học. Bởi vì giảng đến câu chuyện trong lịch sử, thì phải đi đến tận nơi đó, để học sinh xem. Xem hiện trường, quá khứ đã xảy ra những chuyện gì, người xem có ấn tượng sâu sắc. Đi du lịch mấy tháng trở về, môn học đã dạy xong. Vì thế, học thật sự là vui, đâu giống ngày nay học, học thật đáng thương, học thật vất vả.

“Duyên Giác nhiếp quy Thanh Văn, cố chỉ nhị tạng. Tịnh Cảnh Sớ vân, Long Thọ vân” (Duyên Giác cũng quy về Thanh văn. Vì vậy, chỉ Nhị tạng, Tịnh Cảnh Sớ, Long Thọ nói). Sau khi đức Phật diệt độ, Ngài Ca Diếp và A Nan ở thành Vương Xá, kết tập pháp tạng, là Thanh Văn tạng. Kết tập kinh tạng, Ngài A Nan đảm nhiệm việc giảng lại, còn có một vị chủ trì Thanh Văn tạng là Ma Ha Ca Diếp. Ở đây, nói nguồn gốc của Thanh Văn tạng, chính là kinh A Hàm trong Đại Tạng Kinh của chúng ta ngày nay.

“Văn Thù, A Nan ư Thiết Vi sơn, tập Ma Ha Diễn vi Bồ tát tạng” (Văn Thù, A Nan ở núi Thiết Vi kết tập Ma Ha Diễn là Bồ Tát tạng). Vị chủ trì cho Bồ Tát tạng là Bồ tát Văn Thù, người giảng lại là Ngài A Nan. Ngài A Nan giảng lại một lần tất cả kinh điển khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế đã nói, ghi chép lại lưu truyền đến đời sau. Đó là kinh điển. Nguồn gốc của kinh điển là như vậy. Do đó, trong đạo Phật mấy ngàn năm nay bồi dưỡng pháp sư giảng kinh, đều sử dụng phương pháp này. Phương pháp này ở Trung Quốc đã dùng 2.000 năm, gọi là “Phục tiểu tọa” (Giảng lại người sau). Ngày xưa, ở tự viện mỗi ngày giảng kinh, thật sự là nền giáo dục mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni truyền lại.

Giáo dục của đức Phật, sự dạy học của Phật, Bồ tát, là hàng ngày giảng kinh. Những học sinh phát tâm học giảng kinh ngồi ở hàng thứ nhất, ngồi gần thầy giáo nhất, hàng thứ nhất. Vì sao vậy? Vì họ phải giảng lại. Thầy giáo giảng buổi sáng, có thể buổi chiều sẽ đến lượt họ phải giảng. Giảng lại một lần những gì thầy giáo đã giảng. Đó là thời xưa.

Những người bình thường nghe kinh, cũng đến chùa để tìm cái kinh đơn, nghĩa là chuyên môn nghe kinh. Trong chùa có khách đường để tiếp đón họ, có phòng ốc để họ nghỉ ngơi. Họ đến đó để nghe kinh. Thời gian là một bộ kinh. Giảng xong một bộ kinh, thì họ sẽ đi. Họ đến để nghe một bộ kinh.

Vào thời đó, chùa tốt, bởi vì kinh tế của chùa có sự thu nhập cố định, không nương vào Phật tử. Những người đến nghe kinh, đa số là tú tài nghèo. Họ đến chùa ở một, hai tháng, tùy tâm cúng dường một chút. Tài lực của họ có hạn. Họ đến đây ở hai, ba tháng, chùa cho họ ăn ở. Hàng ngày, họ học tập kinh giáo. Đại khái, người xuất gia cũng phải giảng lại. Khi giảng lại, đôi khi thầy giáo nghe, đôi khi thầy giáo không nghe, nhưng mà thầy giáo sẽ nghe vài lần.

Quý vị học, có người tư chất thông minh, như các anh chị học trước vậy, làm trợ giảng cho thầy giáo. Vào thời đó, chưa có danh từ trợ giảng, nhưng trên thực tế là trợ giảng, giúp cho quý vị giải quyết vấn đề, thật sự học tập! Thầy giáo giảng xong một bộ kinh, các vị học giảng kinh, cũng đã giảng lại xong, họ ra ngoài giảng có niềm tin. Đời đời như thế, đến đời chúng tôi đây vẫn còn học phương pháp cũ này.

Thầy Lý mở một lớp học ở Đài Trung. Lớp học kinh, chính là lớp dạy giảng kinh. Thấy ấy dạy mấy người? Dạy 2 người. 2 người này ngồi trước mặt thầy, còn lại hơn 20 học sinh khác, ngồi vây xung quanh nghe dự thính. Dự thính cũng phải học nghiêm chỉnh, cũng phải ghi chép vào tập, bởi vì khi đó không có máy thu âm, đương nhiên cũng không có máy thu hình, không có những thiết bị này.

Chắc khoảng hơn 50 năm về trước, 60 năm rồi, những người dự thính ấy ghi chép lời thầy giảng cho quý vị giảng kinh, giúp cho họ. Bởi vì, thầy giáo giảng kinh, người này không cách nào nhớ được hết. Các quý vị ghi rồi, người này về nhà soạn ra, viết thành giáo trình, hoàn toàn là của thầy giáo, không được sử dụng ý của mình trong đó. Khi giảng lại, thì mang giáo trình này đi giảng. Giảng cho ai nghe đây, giảng cho các bạn nghe, cho thầy giáo nghe, thầy giáo và các bạn cùng nghe.

Tiết thứ hai không phải là thầy giáo giảng, mà là người học giảng kinh giảng lại. Sau khi giảng xong, các bạn học góp ý để giúp cho người này tiến bộ. Thầy giáo hướng dẫn, người học giảng kinh đây soạn lại bài giảng một lần nữa. Sau khi soạn lại xong, tiếp tục lên bục giảng công khai giảng với mọi người. 2 người lên pháp tòa, ở Đài Loan, một người giảng tiếng Phổ thông, một người giảng tiếng Đài, giống như là phiên dịch vậy. Kỳ thật là sử dụng bài giảng giống nhau, bồi dưỡng học sinh như thế đấy.

Lớp học này của thầy Lý mở được 2 năm, thành tựu được hơn 20 học sinh. Tôi học ở lớp này 1 năm 3 tháng. Tôi dự thính, ngồi ở hàng cuối cùng, bởi vì tôi là học sinh cuối cùng đến lớp. Y theo thứ tự trước sau, nên chỗ ngồi của tôi ở chỗ cuối cùng. Khi tôi còn trẻ có 2 điều kiện tốt, một là trí nhớ rất tốt, tôi nghe diễn giảng một tiếng đồng hồ, nếu kêu tôi giảng lại ngay, thì ít nhất tôi cũng có thể giảng đến 55 phút. Tôi có tài này, trí nhớ tốt. Trí nhớ có thể duy trì được một tuần lễ, tôi có năng lực này. Thứ hai là tôi có năng lực lý giải rất tốt. Tôi hiểu được ý nghĩa của nó, cho nên trình độ học tập của tôi rất nhanh.

Các bạn khác, họ nghe không hiểu. Ngồi trước thầy giáo, tôi hiểu hết. Thầy giáo giảng một lần, tuyệt đối không giảng lần thứ hai. Nếu quý vị hỏi thầy, thầy la cho quý vị một bài, đôi khi còn đánh quý vị nữa. Đánh rồi, nhưng cũng không nói cho quý vị biết, không giảng lại đâu. Thầy nói nếu như tôi la anh, đánh anh rồi lại giảng cho anh biết, thì anh vẫn còn tâm lý may mắn, không sao hết, cùng lắm bị la một trận, bị đánh một trận, nhưng thầy vẫn giảng cho mình biết. Đánh rồi, la rồi mà không giảng, quý vị sẽ chẳng có cách nào. Ở đây, dạy quý vị điều gì? Dạy quý vị khi nghe giảng, phải tập trung tinh thần lại mà nghe, quý vị không thể có một vọng niệm. Quý vị bị sót một câu, bị sót một đoạn, thì tuyệt đối không thể giảng lại được. Đây là đề khó đấy.

Các bạn ấy không làm được, họ đến hỏi tôi, tôi giảng cho họ, cho nên tôi đã giúp đỡ rất nhiều đối với các bạn học giảng kinh. Tôi nghe được 13 bộ kinh, đại khái hơn 1 tháng, gần 2 tháng. Người này học bộ kinh này xong rồi, thì họ dự thính, tiếp tục 2 người khác, luân phiên như thế. Chúng tôi đã học như vậy.

Vì vậy, những gì tôi nghe qua đều có thể giảng lại được. Tôi có được ưu điểm như thế, nên học rất nhanh. 1 năm 3 tháng, thì tôi đi xuất gia. Sau khi xuất gia, tôi dạy ở Phật Học Viện, bắt đầu ra ngoài giảng kinh. Tôi học 13 bộ kinh này, rất hữu dụng, rất được hoan nghênh.

Dạy ở Phật Học viện được hơn 1 năm, chưa đến 2 năm, tôi cảm thấy không được, nền căn bản của tôi không dày. Tôi học toàn là bộ kinh nhỏ, học được bộ lớn nhất, là kinh Kim Cương và phẩm Phổ Hiền Bồ tát Hạnh Nguyện, lớn hơn một chút. Căn bản không dày, thì không được, tôi trở lại Đài Trung, học với thầy giáo một bộ kinh lớn. Khi đó, tôi chuẩn bị là kinh Pháp Hoa. Chú giải kinh Pháp Hoa, tôi đã tìm được mười mấy loại, đều là cổ chú, mang đến Đài Trung, hy vọng thầy giáo sẽ dạy tôi bộ kinh này.

Đúng dịp đó, thầy giáo bắt đầu khai giảng kinh Lăng Nghiêm. Thầy nói với tôi, phân lượng của Lăng Nghiêm và Pháp Hoa gần giống nhau, nghĩa lý trong kinh Lăng Nghiêm và kinh Pháp Hoa cũng rất gần, đều có thể nói là pháp môn Viên, Đốn Đại thừa.

Thầy nói, nếu chú học Lăng Nghiêm, thì tôi tiện hơn. Nếu chú học Pháp Hoa, thì tôi không có thì giờ để dạy chú. Tôi đã chấp nhận, đổi thành học kinh Lăng Nghiêm. Kinh Lăng Nghiêm, mỗi tuần thầy ấy giảng 3 buổi tối; tối thứ năm tôi mới giảng lại. 3 năm thầy ấy giảng xong bộ kinh này, tôi cũng giảng lại hết bộ kinh đó. Thính chúng của tôi có 6 người, họ đều là giảng kinh, đều học giảng kinh, hơn nữa họ giảng cũng rất hay.

Mỗi ngày, sau khi tôi giảng lại kinh Lăng Nghiêm, thì 6 bạn học này chỉ ra khuyết điểm cho tôi, giúp cho tôi sửa đổi. Năm 1977, pháp sư người HongKong, mời tôi đến HongKong giảng kinh Lăng Nghiêm, tôi đã đồng ý ngay, vì tôi đã giảng qua một lần rồi mà.

Quy cách học giảng kinh chẳng thể không biết. Sự tương truyền của Trung Quốc đời này sang đời khác, phương pháp bồi dưỡng pháp sư giảng kinh quá hay, trường học ngày nay không thể đem so sánh được. Họ được chọn ra từ trong thính chúng, thật sự có năng lực này, hội đủ 2 điều kiện: một là trí nhớ, hai là sự hiểu biết. Nếu quý vị nghe một tiếng đồng hồ, quý vị giảng không được 40 phút, thì không đạt tiêu chuẩn. Như thế, quý vị không thể tham dự lớp học này, bởi ít nhất là phải giảng được 40 phút, mới tạm gọi là được. Cách học của chúng tôi thời đó, bình thường rất hiếm có, hầu như 100% là có thể giảng được.

“Địa Trì diệc vân, Phật vị Thanh Văn, Bồ tát hành xuất khổ đạo” (Phật vì Thanh văn, Bồ tát tu hành thoát ra nẻo khổ). Địa Trì là kinh. Hành là tu hành. Khổ đạo là lục đạo luân hồi. Hàng A La Hán và Bồ tát làm thế nào để siêu việt lục đạo luân hồi, nói những đạo lý, những phương pháp này cho họ. “Thuyết Tu đa la” (Nói Tu đa la), là kinh. “Kết tập kinh giả, tập vi nhị tạng” (Kết tập kinh làm thành 2 tạng).

Sau khi đức Phật diệt độ, các vị đệ tử Thanh Văn và Bồ tát, hy vọng đem lời dạy của đức Phật viết thành văn tự lưu truyền, giúp cho hàng hậu học đời sau, cho nên phát khởi kết tập, nghĩa là sắp xếp lại những tài liệu dạy học của đức Thế Tôn. Ngày xưa, đức Phật dạy học không có bài giảng, cũng không có văn tự, nên nhất định phải nương vào việc giảng lại, tập thành 2 tạng. Nói về việc tu hành của hàng Thanh Văn là Thanh Văn tạng, nói đến việc tu hành của hàng Bồ tát là Bồ Tát tạng. Đây là nguồn gốc của kinh điển Đại thừa và Tiểu thừa.

“Kim bản kinh trung quảng diễn Đại thừa, tường trần tín nguyện vãng sinh thù thắng nhân quả, tịnh Phật quốc độ Y Chính Trang Nghiêm, Di Đà vô biên nguyện hải phổ độ chúng sinh chi đạo” (Nay trong bản kinh này giảng rộng Đại thừa, trình bày nhân quả thù thắng của việc Tín nguyện vãng sinh, Y chính trang nghiêm ở cõi Phật tịnh, Đạo độ khắp chúng sinh theo như biển nguyện vô biên của đức Phật A Di Đà). Do đó, bộ kinh này thu nhiếp vào Bồ Tát tạng.

Tiếp nói về “Năm thời”. “Thiên Thai Đại sư” (Trí Giả Đại sư), Ngài y theo kinh Niết Bàn, phân một đời đức Thế Tôn thuyết pháp làm 5 thời kỳ.

Thứ nhất, đức Phật nói kinh Hoa Nghiêm đầu tiên trong 21 ngày, gọi là thời Hoa Nghiêm. Vừa rồi tôi có nói với quý vị, hàng Tiểu thừa không chấp nhận.

Thứ hai, là 12 năm, ở vườn Lộc Uyển v.v… 12 năm không phải chỉ ở trong vườn Lộc Uyển. Thời gian đầu ở vườn Lộc Uyển độ 5 Tỷ khiêu, nói Tứ A Hàm, gọi là thời A Hàm. Trong thời này nói về đạo lý làm người, cũng có nghĩa là luân lý, đạo đức, nhân quả, mà chúng ta giảng thời nay, giảng về con người vì sao phải ở trong lục đạo luân hồi, những lý sự nhân quả này đều giảng rất thấu triệt. Làm thế nào để thoát ly lục đạo luân hồi. Giảng về nghiệp nhân quả báo trong lục đạo luân hồi. Dạy con người làm thế nào để không mất nhân thân, làm thế nào để sinh về cõi Trời Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, làm thế nào để vượt ra lục đạo luân hồi. Những điển tịch giảng dạy này, đều được gọi là thời A Hàm.

Thứ ba, trong 8 năm sau đó, nói kinh Duy Ma, kinh Đại Tập, kinh Lăng Nghiêm v.v…, 5 kinh Tịnh độ đều được nói vào thời điểm này. “Đàn thiên xích tiểu” (Chê thiên lệch, bài xích Tiểu). “Thán đại bao viên” (Khen ngợi Đại, tán dương Viên). Lúc này, đức Phật khuyến khích đại chúng nên bỏ Tiểu thừa, phát tâm hướng thượng. Tiểu thừa chỉ chứng quả A La Hán, chỉ thoát ly lục đạo luân hồi, không ra khỏi mười pháp giới. Nói cho đại chúng biết, ngoài luân hồi ra, vẫn còn 4 pháp giới: Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát và Phật. Lục đạo là nhiễm ô, 4 pháp giới là thanh tịnh. Hy vọng mọi người phát tâm, tiến lên một bước nâng cao cảnh giới của mình, cho nên đã nói những kinh điển như vậy.

“Quảng thuyết tạng thông biệt viên tứ giáo” (Nói rộng 4 giáo: Tạng, Thông, Biệt, Viên). Quảng là phương, thường đi đôi với nhau là phương quảng; bình đẳng chia đều các căn cơ, gọi là thời Phương Đẳng.

Thứ tư, sau đó 22 năm, nói kinh Đại Bát Nhã, gọi là thời Bát Nhã. Chúng ta mới biết được, Bát Nhã là trung tâm của Phật pháp. 12 năm thời A Hàm là nền tảng giáo dục. Phương Đẳng là thời kỳ dự bị, nghĩa là từ Tiểu thừa tiến đến Đại thừa là thời kỳ trải nghiệm, cũng có nghĩa là nòng cốt khóa dự bị, lớp dự bị.

Thứ năm, cuối cùng 8 năm nói kinh Pháp Hoa, kinh Niết Bàn là di giáo, là di chúc, nói trong 1 ngày 1 đêm, đều tính vào thời thứ 5, cho nên 5 thời kỳ. “Cửu giới tam thừa,. tất mông thọ ký, vô luận đại tiểu, giai linh tác Phật, thử thời minh viết Pháp Hoa Niết Bàn thời” (Chín giới, ba thừa, cuối cùng đều nương nhờ được thụ ký, bất luận Đại, Tiểu, đều khiến cho thành Phật. Thời này gọi là thời Pháp Hoa, Niết Bàn).

Kinh Pháp Hoa là kinh đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói sau cùng. Bất luận là Đại thừa hay Tiểu thừa, mục tiêu cuối cùng, đều là làm Phật, thành Phật, như kinh Hoa Nghiêm nói, tất cả chúng sinh vốn là Phật.

“Hựu thử kinh mông Thế Tôn đa thứ tuyên thuyết, cố bất ưng hạn ư nhất thời dã” (Lại kinh này do đức Thế Tôn tuyên thuyết nhiều lần, nên không thể hạn cuộc ở một thời nào). Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hầu như trong thời Phương Đẳng có nói đến, thời Bát Nhã cũng có nói đến, cho nên không thể đặt kinh này vào bất cứ thời kỳ nào. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thường giảng bộ kinh này. Nói cách khác, tầm quan trọng của bộ kinh này có thể suy nghĩ mà biết được. Vì sao đức Phật phải nhiều lần giảng bộ kinh này? Là hy vọng tất cả chúng sinh, trong một đời này, đều có thể viên mãn thành Phật. Bộ kinh này là con đường thành Phật, ai cũng có phần. Năng tín, năng nguyện, năng hành là sẽ thành công.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 49)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 48)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 47)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 331
    • Số lượt truy cập : 8549823