Thông tin

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH GIẢI DIỄN NGHĨA - TẬP 44

 

 

Chủ giảng: LÃO PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG

*****

Trưởng ban biên dịch:

TK. Thích Đồng Bổn

 

QUYỂN 5

(Tập 41-50)

 

TẬP 44

 

Giảng ngày 19 tháng 5 năm 2010 Tại Tịnh Tông Học Viện Úc Châu

Biên dịch: Tử Hà - Biên tập: Bình Minh

 

Các vị pháp sư, các vị đồng học, mời xem tiếp Đại thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang 417.

Chúng ta xem đoạn Đinh - Phán giáo. “Đệ nhất, tứ giáo dữ ngũ giáo, cổ kim chư sư phán phần giáo tướng giả phàm hữu thập nhị gia, kỳ trung tối trước giả nãi Thiên Thai sở lập chi tứ giáo, dữ Hiền Thủ tông chi ngũ giáo” (Thứ nhất, Tứ giáo và Ngũ giáo, các sư xưa nay phân chia giáo tướng gồm 12 nhà, trong đó nổi bật nhất là Tứ giáo của Thiên Thai và Ngũ giáo của Hiền Thủ Tông thiết lập). Phán giáo, cũng có nghĩa là sau này chư vị Tổ sư phát minh ra, tam tạng, nhị tạng, ngũ thời, phân giáo. Vào thời của đức Phật Thích Ca Mâu Ni hoàn toàn không có. Sau này, chư vị Tổ sư, đem sự dạy học của đức Thế Tôn trong suốt 49 năm ra nghiên cứu. Nghiên cứu rốt cuộc Ngài đã dùng phương pháp nào? Nghiên cứu về những thứ đó, cho nên đã đem phân ra rất nhiều khoa mục. Đối với các vị học Phật đời sau này mà nói, thật sự tiện lợi rất nhiều. Nhưng nói tóm lại, những thứ này rất đáng để tham khảo.

Nếu không thể giữ vững những nguyên tắc này, thì là quý vị sai đấy. Thời giáo một đời của đức Thế Tôn rất linh hoạt. Trong kinh đức Phật đã nói rất rõ ràng: “Như Lai không có pháp nhất định nào để nói”. Trong kinh Lăng Nghiêm đã nói cho chúng ta thấy rõ, “Tùy chúng sinh tâm, ứng sở tri lượng”.

Điều này, cho thấy đức Phật tùy theo căn tính của chúng sinh, tùy theo trình độ của chúng sinh, không có phương pháp nhất định, như trước đây chúng ta học đến “cứu cánh phương tiện”. Đó là đại trí tuệ, đại thần thông mới có thể làm được, chứ không giống như phương pháp phân ra của hàng hậu học. Những phương pháp này, chỉ là biểu hiện qua một đời thuyết pháp của đức Thế Tôn. Đó là những điều mà người học Phật chúng ta chẳng thể không biết.

Phán giáo. Giáo là dạy học, dùng ngôn ngữ ngày nay mà nói, là chế độ dạy học. Người xưa nói là nghi thức dạy học, cho nên có giáo nghĩa, có giáo pháp. Pháp là phương pháp, nghi là nghi thức, ngày nay chúng ta nói là chế độ. Ví dụ như lớp mẫu giáo, tiểu học, trung học, đại học, thạc sĩ, đều thuộc về chế độ, ngày xưa gọi những cái đó là giáo nghĩa. Phương pháp là phương pháp dạy học, đối với hàng lợi căn dùng phương pháp nào? Hàng độn căn dùng phương pháp nào? Phương pháp do người mà có khác.

Nghi thức là y theo tiến độ không tương đồng mà có sự sai biệt. Bắt đầu học tập, là sơ nhập môn, gọi là tiểu học, sau đó từ từ hướng lên nâng cao, lên đến trung học, đến đại học, đến nghiên cứu sinh. Phương pháp như vậy gọi là Tiệm Giáo, từ từ hướng thượng nâng lên. Còn một loại nữa là Đốn Giáo, dành cho cái gọi là thiên tài nhi đồng, họ không cần phải trải qua nhiều tầng lớp như vậy, vừa nhập môn là họ có thể vào lớp thạc sĩ; tiểu học, trung học, đại học, họ không cần phải học. Đó là trường hợp đặc biệt, có người như vậy không? Có, nhưng không nhiều, rất ít. Từ đó cho thấy, cách nói pháp này, vì người, thời, việc, nơi chốn mà bất đồng. Nếu quý vị hiểu được hết, thì gọi là khế cơ.

“Cổ kim chư sư”, đó là thời xa xưa, chứ không phải ngày nay. Đại khái phân khoa Phán giáo là vào thời Tùy Đường. Nói “cổ” là trước đời Tùy Đường. Cổ nhân nói “kim”, đại khái vào thời Tùy Đường. Các vị tổ sư nói phân khoa phán giáo có 12 học phái. Trong 12 học phái này, nổi tiếng nhất là Thiên Thai và Hiền Thủ, cho nên người học giáo sau này, không nương vào Thiên Thai, thì nương vào Hiền Thủ, cho đến năm Dân Quốc đầu tiên cũng còn như vậy. Ngày nay, chúng ta còn học những thứ này nữa hay không? Ngày nay, không học nữa. Thời của chúng tôi là đã không học rồi. Không học thì làm sao đây?

Thầy Lý đã đơn giản hóa những thứ này, viết thành một cuốn sách mang tên: Nội Điển Giảng Tọa Chi Nghiên Cứu. Chúng ta nương vào cuốn sách này. Cuốn sách này nghĩa là gì? Nghĩa là đơn giản hóa Tứ giáo và Ngũ giáo. Đây là thích hợp với người thời nay, không nói kỹ như bậc cổ nhân, nhưng mà thích hợp với khẩu vị của người thời nay.

“Thiên Thai tứ giáo viết tạng thông biệt viên” (Tứ giáo của Thiên Thai Tông là Tạng, Thông, Biệt, Viên). Dưới đây giải thích sơ lược: Một là “Tạng Giáo”, chính là Tiểu thừa. Tạng là Tam tạng, nghĩa là Tam tạng Kinh, Luật, Luận, mở ra ba khoa mục này. Kinh Tạng, nói về định học. Luật Tạng nói về giới học, nói về quy củ. Luận Tạng là nghiên cứu thảo luận, khai mở trí tuệ. Ở trong đó có rất nhiều điều hỏi đáp. Mới vào cửa Phật cần nên học những điều này, học giới, tu định, khai tuệ.

Hai là Thông Giáo, “Vị Đại thừa trung thông thuyết tam thừa, thông bỉ tam căn” (Trong Đại thừa nói thông suốt cả 3 thừa, thông đủ cả 3 căn). Thông Giáo là trước thông với Tiểu thừa, sau thông với Đại thừa. Ở trong đó nói có Thanh Văn thừa, có Duyên Giác thừa, có Bồ tát thừa. Thanh Văn là Tiểu thừa, Duyên Giác là trung thừa. Nếu như nói Nhị thừa, là Duyên Giác và Thanh Văn hợp lại, gọi là Tiểu thừa giáo, Bồ tát là Đại thừa. Nói Tam thừa là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát. “Thông bỉ tam căn”. Tam căn thượng, trung, hạ, đều giảng đến. Ở đây, giống như bậc trung học của Phật giáo vậy.

Ba là Biệt Giáo, “Vị Đại thừa kinh trung sở thuyết giáo pháp, bất thông Tiểu thừa đẳng giả thị dã” (Những giáo thuyết nói trong kinh Đại thừa, không chung với các hàng Tiểu thừa). Ở trong đây không có giáo nghĩa Tiểu thừa. Thật sự nâng cao rồi, nhưng mà nó vẫn còn có thể hướng thượng nâng cao lên nữa, hướng thượng nâng cao lên đến Viên Giáo. Ở đây ví cho đại học. Viên Giáo ví cho thạc sĩ.

Bốn là Viên Giáo, “Vị pháp giới tự tại, cụ túc viên mãn, nhất tức hết thảy, hết thảy tức nhất, vô ngại pháp môn đẳng thị dã” (Là tự tại trong pháp giới, viên mạn đầy đủ, hết thảy là một, một là hết thảy, pháp môn vô ngại…). Đây mới là viên mãn Đại thừa. Ở trong đó nói đa phần là pháp thân Bồ tát, đến Phật quả cứu cánh. Đây là giáo tướng của Thiên Thai, nghĩa là nghi thức dạy học, cách dạy học. Người thời này nói là chế độ dạy học, như vậy mọi người dễ hiểu.

“Hiền Thủ tông phân giáo” (Tông Hiền Thủ phân chia giáo). Hiền Thủ là Tông Hoa Nghiêm. Hiền Thủ Đại sư, là Tổ đời thứ 3 của Tông Hoa Nghiêm. Sơ tổ của Tông Hoa Nghiêm là Đỗ Thuận, nhị tổ là Vân Hoa, tam tổ là Hiền Thủ. Sự kiến lập phân giáo này, đã hoàn thành vào đời Hiền Thủ Đại sư, thành lập nên một thế hệ rất tốt.

Vì vậy, Tông Hoa Nghiêm không gọi là Tông Đỗ Thuận mà gọi là Tông Hiền Thủ. Ngài là một nhân vật rất quan trọng trong 5 vị tổ đầu tiên của Tông Hoa Nghiêm, cũng có nghĩa là sự kiến lập nên Tông Hoa Nghiêm đến tay Ngài mới được xem là viên mãn, giống như làm nhà vậy, đến đời Ngài mới làm xong, bắt đầu làm là 2 vị tổ trước.

Phán giáo, Ngài nói: “Thánh giáo vạn sai, yếu duy hữu ngũ” (Thánh giáo muôn khác, cốt yếu chỉ có 5). Thánh giáo. Thánh là chỉ cho đức Phật Thích Ca Mâu Ni, bậc đại thánh. Một đời Ngài giáo hóa khác nhau rất nhiều. Tất cả pháp Ngài nói trong suốt 49 năm. “Yếu” là đem quy nạp lại tinh giản có 5 loại: Tiểu thừa Giáo, Đại thừa Thỉ Giáo, Đại thừa Chung Giáo, Đốn Giáo, Viên Giáo.

Thiên Thai lấy Đốn và Viên hợp lại là một gọi là Viên Giáo. Ngài Hiền Thủ từ trong Viên Giáo lại mở ra Đốn Giáo. Tiểu Giáo là tiểu học, Thỉ Giáo là trung học, Chung Giáo là đại học. Đốn Viên là nghiên cứu sinh, giảng kỹ hơn Tông Thiên Thai một chút.

Dưới đây giới thiệu, thứ nhất Tiểu thừa Giáo: “Sở thuyết duy thị nhân không, túng thiểu thuyết pháp không, diệc bất minh hiển, vị tận pháp nguyên cố” (Giáo thuyết chỉ nói Nhân không, giả sử có nói chút về Pháp không cũng không rõ, vì chưa hiều hết nguồn pháp). Trong Tiểu thừa Giáo giảng nhiều nhất là về Nhân ngã không, có nói Pháp không, nhưng không nhiều, nói không được rốt ráo, chỉ nhắc qua thôi.

Vì thế, hàng Tiểu thừa, đối với duyên khởi của vạn pháp, họ không hiểu rõ. Duyên khởi về lục đạo, thì nói rất nhiều, không nói đến duyên khởi của các pháp. Chỉ nói duyên khởi của lục đạo, cho nên sự tu tập của hàng Tiểu thừa, quả vị cao nhất là vượt ra lục đạo.

Lục đạo từ đâu có? Từ Kiến Tư hoặc phiền não biến ra. Đoạn hết chúng, thì lục đạo không còn nữa. Lục đạo không còn, cảnh giới xuất hiện ra là Tứ thánh pháp giới: Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật, thành mười pháp giới. Trong mười pháp giới, bốn pháp giới sau gọi là Tịnh độ, thanh tịnh không nhiễm ô; 6 pháp giới lục đạo phàm phu trước, là uế độ, là nhiễm ô. Trong nhiễm ô nói đến thiện ác. Quý vị tu thiện, thì ở 3 đường lành. Quý vị làm ác, thì vào 3 đường dữ. Cảnh giới này từ trong tâm niệm biến hiện mà có. Đạo lý này, trong Đại thừa giáo nói rất rõ ràng minh bạch: “Tướng do tâm sinh. Cảnh tùy tâm chuyển”.

Thông thường, người ta không hiểu rõ chân tướng sự thật. Hết thảy chúng sinh có tâm, vô tâm khởi một niệm lên, mà không biết một niệm này ảnh hưởng đến mức nào. Không biết tâm niệm này sẽ tạo nên kết quả như thế nào, họ hoàn toàn không biết, nhưng Bồ tát Đại thừa thì biết được.

Ở trong Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán, thấy được 3 loại châu biến này, không thể lường được! Một tâm niệm cực kỳ vi tế, thậm chí tâm niệm đó chính bản thân chúng ta còn không biết được. Vì sao vậy? Tập khí nhỏ nhiệm, khởi lên một niệm. Tâm niệm là châu biến pháp giới. Quý vị xem mức ảnh hưởng có lớn không?

Tin tức châu biến pháp giới này, ngày nay các nhà khoa học gọi là tin tức, trong Đại thừa giáo gọi là chuyển tướng. Nó là năng biến, cảnh giới tướng là sở biến, tùy theo tâm niệm này mà biến. Niệm thiện biến thành cảnh giới thiện, biến thành thế giới Cực Lạc. Niệm ác biến thành cảnh giới ác, biến thành ngũ trược ác thế. Tâm niệm biến hiện, tâm niệm thiện ác đều không có, mới gọi là tịnh niệm.

Chỉ cần có những tâm niệm này, thì đều là nhiễm ô, đều là không thanh tịnh. Đến Tứ thánh pháp giới, đoạn hết Kiến Tư phiền não, cũng có nghĩa là 2 bên thiện ác đều không có. Nó không tồn tại nữa, cho nên mới gọi Tứ thánh pháp giới là tịnh niệm. Nơi mà những người này sống gọi là Tịnh độ. Cái lý là ở chỗ này. Vẫn còn nhiễm, tịnh thì đó không phải thật sự thanh tịnh. Thật sự thanh tịnh là gì? Là ngay cả nhiễm, tịnh cũng không còn. Quý vị xem nhiễm tịnh, vẫn là đối lập, vẫn là 2 pháp không phải là một pháp. Trong một pháp không có nhiễm tịnh. Nói cách khác, tất cả những thứ đối lập đều không tồn tại, đó gọi là Nhất chân pháp giới, đó là Thật Báo Trang Nghiêm Độ, đó là Viên Giáo. Đến Thật Báo Trang Nghiêm Độ là Viên Giáo.

Giáo cuối cùng của Đại thừa, là viên mãn của Đại thừa. Đại thừa viên mãn hướng thượng nâng cao gọi là Nhất thừa. Trong kinh Pháp Hoa nói: “Duy có pháp Nhất thừa, không hai cũng không ba”. Hai là Đại thừa, Tiểu thừa. Ba là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát. Không có! Đó là giả thiết. Chỉ có pháp Nhất thừa, không hai cũng không ba. Nhất thừa chính là Phật thừa. Quý vị vốn là Phật, bây giờ quý vị quay về tự tính, là quý vị thành Phật, cho nên đây là điểm cuối cùng (chung) của Đại thừa. Điểm cuối cùng của Đại thừa ở đâu? Là Phật pháp giới trong mười pháp giới. Họ chưa kiến tính, vẫn như xưa dùng A Lại Da, nhưng mà họ dùng A Lại Da một cách viên mãn. Vì họ tiếp thu sự chỉ dạy của Phật, Bồ tát, y giáo tu hành, cho nên về mặt hình tướng, thấy họ và Phật không khác. Vì vậy, Trí Giả Đại sư nói về “Lục Tức Phật”, gọi những người này là Tương Tự Tức Phật, rất giống, rất giống Phật, nhưng chưa thể gọi là Phật thật. Vì sao? Vì họ chưa thể chuyển thức thành trí, tâm mà họ dùng vẫn là A Lại Da. Thật sự thành Phật, thì A Lại Da chuyển thành Tứ trí Bồ đề. Đó là chân tâm, là Phật thật, Nhất chân pháp giới, Thiền Tông gọi là minh tâm kiến tính; trong Pháp Tướng Tông gọi là chuyển thức thành trí.

Chuyển thức thứ 6 thành Diệu quan sát trí, chuyển thức thứ 7 thành Bình đẳng tính trí, chuyển A Lại Da thành Đại viên cảnh trí, chuyển 5 thức trước thành Thành sở tác trí. Chuyển biến như thế, thì vị này chính là Phật thật. Phật thật vẫn chưa đạt đến cứu cánh viên mãn, cho nên Thiên Thai Đại sư gọi đó là Phần Chứng Tức Phật. Từ Sơ Trụ của Viên Giáo đến Đẳng Giác đều gọi là Phần Chứng Tức Phật. Đẳng Giác trở lên là viên mãn, gọi là cứu cánh viên mãn.

Điều này, trong kinh Hoa Nghiêm, chúng ta học được rất nhiều. 41 tầng lớp ở đây đều là minh tâm kiến tính, đều là không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước, cho nên là chân thật bình đẳng. Trong chân thật bình đẳng vì sao vẫn còn có 41 cấp bậc vậy? Do tập khí vô thỉ vô minh, mang theo nhiều ít không đồng nhau. Vừa mới chứng được Sơ Trụ của Viên Giáo, không khởi tâm, không động niệm, nhưng mà tập khí không khởi tâm, không động niệm vẫn còn. Tập khí đó không sao cả, không giống như phân biệt, chấp trước. Tập khí phân biệt, chấp trước vẫn còn tạo nghiệp. Tập khí không khởi tâm không động niệm, nó không tạo nghiệp, cho nên nó không chướng ngại. Đoạn sạch hết những tập khí này, đó chính là cứu cánh viên mãn Phật.

Do đó, chỉ cần buông bỏ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, hoặc giả chúng ta nói buông bỏ khởi tâm động niệm, đây chính là Viên Giáo. Viên Giáo không khởi tâm, không động niệm. Đốn Giáo cũng không khởi tâm, không động niệm. Đốn Giáo lập tức buông bỏ, hạng người này rất khó tìm. Viên Giáo, buông bỏ khởi tâm động niệm từ từ từng bước hướng thượng nâng cao. Đó là Viên Giáo. Đốn Giáo, không đi qua Tiểu, Thỉ, Chung, thật sự gọi là một bước lên trời.

Khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, Ngài tham học 12 năm, biết rằng không viên mãn, nên buông bỏ những thứ học được trong 12 năm này, nhập định dưới cội cây Bồ đề, hốt nhiên đại ngộ. Đó là Đốn. Lập tức buông bỏ khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước, không có thứ lớp, buông bỏ hết, nên đã thành Phật.

Vào đời Đường ở Trung Quốc, Lục Tổ Huệ Năng của Thiền Tông thị hiện Đốn Giáo, không phải là Viên Giáo. Ngài không đi qua Tiểu, Thỉ, Chung. Canh ba nửa đêm Ngài vào phương trượng thân cận với Ngũ Tổ. Tổ sư giảng đại ý kinh Kim Cương cho Ngài, giảng đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”, thì Ngài hốt nhiên đại ngộ. Đó là nguyên nhân gì vậy? Ngũ Tổ giảng đến chỗ này, thì Ngài buông bỏ khởi tâm động niệm. Đây là đốn xả. Xả là buông bỏ; đốn xả, không phải Ngài bỏ từ từ.

Căn tính của chúng ta ngày nay không giống như Ngài. Chúng ta không phải là đốn căn, chúng ta là tiệm căn. Chúng ta học tập trong kinh giáo, công phu thật sự chính là buông bỏ. Mỗi năm buông bỏ một chút, mấy mươi năm từ từ buông bỏ, có được kết quả, đó gọi là tiệm tu. Chúng ta học Tiểu Giáo, buông bỏ Tiểu Giáo, học Thỉ Giáo lại buông bỏ Thỉ Giáo, học Chung Giáo lại buông bỏ Chung Giáo, như thế từ từ đi đến Viên Giáo. Đâu là Viên Giáo? Hoa Nghiêm là Viên Giáo, Pháp Hoa là Viên Giáo, kinh Vô Lượng Thọ là Viên Giáo, từ từ chúng ta học thành.

“Đại thừa Thỉ Giáo, vị thị hết thảy chúng sinh giai hữu Phật tính chi nghĩa” (Thỉ Giáo của Đại thừa, là chỉ cho chúng sinh biết ý nghĩa hết thảy chúng sinh đều có Phật tính). “Bất hứa định tính xiển đề thành Phật” (Nhưng không chấp nhận hạng Nhất Xiển Đề có thể thành Phật). Xiển Đề là tiếng Ấn Độ, nghĩa là không có thiện căn. Người không có thiện căn, thì làm sao có thể thành Phật được. Nhưng Viên Giáo, thì không nghĩ như vậy. Viên Giáo cho rằng, tất cả chúng sinh vốn là Phật. Câu này không thể nói ở chỗ đó, bởi nói thì họ hoài nghi, họ không tin, cho nên chỉ nói rằng, người không có thiện căn, thì không thể thành Phật.

“Vị tận Đại thừa cực tắc chi đàm, cố danh vi thỉ” (Chưa nói hết được tột cùng Đại thừa nên gọi là Thỉ). Đây là Đại thừa Thỉ Giáo. Chung Giáo là nói về trung đạo, giảng về diệu hữu, giảng về định tính. Định tính là A La Hán, Xiển Đề là chúng sinh không có thiện căn, tất cả đều có thể thành Phật.

“Phương tận Đại thừa chí cực chi thuyết, cố danh viết chung” (Nói hết được tột cùng Đại thừa nên gọi là Chung). Những gì chúng ta học ngày nay, chúng ta học đến chỗ nào đây? Chúng ta học đến Đại thừa Chung Giáo, Đốn và Viên chúng ta chưa có phần.

“Đốn giáo, duy thuyết chân tính, nhất niệm bất sinh, tức danh vi Phật, bất y địa vị tiệm thứ nhi thuyết, cố danh vi đốn”. (Đốn Giáo chỉ nói chân tính, một niệm không sinh, tức gọi là Phật. Không theo thứ tự dần lên, nên gọi là Đốn). Giống như những điều Huệ Năng Đại sư gặt hái được. Ngài là đốn giáo, đốn xả, đốn ngộ, đốn chứng, đốn thành. Vì thế, nói theo lý, phàm phu thành Phật phải cần bao nhiêu thời gian? Một niệm. Niệm trước mê là phàm phu, niệm sau giác là thành Phật. Giác ngộ gì? Là buông bỏ khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước, là chân giác ngộ.

Ngày nay, chúng ta không giác ngộ được là vì sao? Là vì không buông bỏ được khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước. Chúng ta cũng có thể ngộ, nhưng không phải là đốn ngộ, là sự tích lũy việc tu học trong mấy chục năm, nghĩa là trong kinh điển nói cho chúng ta biết, “nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu”.

Hàng ngày, không rời kinh điển Đại thừa. Ngày ngày đọc tụng, học tập. Chúng ta biết, sự ngộ của chúng ta gọi là giải ngộ. Chư vị tổ sư, như đức Thích Ca, Ngài Lục Tổ, các Ngài chứng ngộ. Hiệu nghiệm của chứng ngộ, các Ngài thật sự hưởng được. Chúng ta giải ngộ là hiểu được, nhưng trên thực tế thì chưa làm được, nên vẫn còn chịu sự thống khổ của sinh tử luân hồi, may mà gặp được pháp môn đới nghiệp vãng sinh này.

Nếu như chúng ta thật sự giác ngộ, bản thân chúng ta nên suy xét chính mình. Chúng ta không thể đốn xả khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước. Suy nghĩ thử xem, e rằng đời này không thể đoạn sạch, chẳng những không đoạn được khởi tâm động niệm, mà phân biệt, chấp trước cũng không đoạn sạch. Nếu không đoạn sạch, thì không ra khỏi lục đạo. Một đời chúng ta tu tập, quả báo ở đâu? Quả báo ở cõi Trời, Người, có thể nói kiếp sau chắc chắn không đọa vào 3 đường ác, có thể được thân người. Tu hay hơn một chút, chưa đoạn hết dục, sinh về cõi Trời Dục giới, nếu dục thật mỏng thật mỏng, quý vị về cõi Trời Sắc giới; hoàn toàn khống chế được dục vọng, chưa đoạn được gốc, nhưng có thể khống chế hoàn toàn, thật sự không khởi tác dụng, thì sinh về cõi Trời Vô sắc giới, vẫn chưa ra khỏi lục đạo luân hồi.

Như thế, nên biết rằng siêu việt lục đạo luân hồi là việc làm vô cùng khó khăn. Gặp được pháp môn Tịnh độ, đối với chúng ta mà nói đây và chuyện vui lớn. Pháp môn này không cần đoạn hoặc, chỉ cần hàng phục được nó là đủ rồi. Quý vị có năng lực hàng phục được Kiến Tư phiền não, nghĩa là hàng phục được chấp trước.

Quý vị không chấp trước tất cả pháp. Quý vị thật sự có thể hằng thuận chúng sinh, tùy hỷ công đức, thì chắc chắn quý vị có thể sinh về Phàm Thánh Đồng Cư Độ ở Tây phương Tịnh độ, chắc chắn quý vị được vãng sinh. Công phu của quý vị tiến lên một bước, quý vị lại có năng lực hàng phục được Trần Sa phiền não, nghĩa là quý vị có năng lực không phân biệt, khống chế được phân biệt, quý vị sinh về Phương Tiện Hữu Dư Độ ở thế giới Tây Phương Cực Lạc. Nếu công phu của quý vị cao lên một tầng nữa, quý vị khống chế được khởi tâm động niệm, ở trong tất cả pháp của thế gian và xuất thế gian, thật sự không khởi tâm không động niệm, thì quý vị sinh về Thật Báo Trang Nghiêm Độ ở thế giới Tây Phương Cực Lạc.

Vì thế, Ngẫu Ích Đại sư nói rất hay: Được vãng sinh hay không là ở chỗ có tín nguyện hay không. Chân tín thiết nguyện, thì được vãng sinh, vãng sinh về nơi 4 cõi với tam bối cửu phẩm. Đó là ở chỗ công phu niệm Phật cao thấp của quý vị. Ở thế giới Cực Lạc không cần phải lo, không cần phải suy nghĩ đến những thứ này.

Thế giới Cực Lạc là gì? Là bình đẳng, một là hết thảy, hết thảy là một. Mặc dù sinh về Phàm Thánh Đồng Cư Độ hạ hạ phẩm vãng sinh, cũng bình đẳng với Thật Báo Độ. Điều này không thể nghĩ bàn. Như vậy nghĩa là sao? Ngày nay chúng ta ở địa cầu này là Phàm Thánh Đồng Cư Độ của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Tứ thánh pháp giới của đức Phật Thích Ca Mâu Ni chúng ta không thấy. Thật Báo Trang Nghiêm Độ của đức Phật Thích Ca Mâu Ni chúng ta không thấy. Đó là vì sao? Vì không giống nhau. Ở trong đây như người thời nay nói là do không gian duy thứ bất đồng.

Các Ngài có thể thấy chúng ta, chúng ta không thấy được các Ngài, nhưng mà ở thế giới Tây Phương Cực Lạc, thì không như vậy. Tuy chúng ta là Phàm Thánh Đồng Cư Độ hạ hạ phẩm vãng sinh, không đoạn một phẩm nào của Kiến Tư phiền não, mà đạt đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, là được bản nguyện oai thần của đức Phật A Di Đà gia trì; trí tuệ thần thông đạo lực của chúng ta, tương đồng với Bồ tát A Duy Việt Trí.

A Duy Việt Trí là gì? Sơ Trụ của Viên Giáo trở lên, là Thật Báo Độ. Nói một cách khác, Bồ tát ở Thật Báo Độ nơi thế giới Tây Phương Cực Lạc, Quan Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, đều ở bên đó. Ngày nào, chúng ta cũng có thể gặp được, vì họ là học trò của đức Phật. Quan hệ của chúng ta là bạn học. Họ là đàn anh của chúng ta.

Chúng ta học tập có bất cứ khó khăn nào, họ đều giúp đỡ chúng ta, cho nên quý vị sinh về thế giới Cực Lạc, chắc chắn quý vị không bị thoái chuyển. Nguyên nhân gì vậy? Rất nhiều người lo cho quý vị, quý vị muốn thoái chuyển cũng không được. Đây là chỗ thù thắng không gì sánh bằng của thế giới Cực Lạc, chúng ta chẳng thể không biết.

Đốn Giáo, như “Tư Ích kinh vân: Đắc chư pháp chính tính giả, bất tùng nhất địa chí ư nhất địa” (Kinh Tư Ích nói: Đắc chính tính của chư pháp, không từ một địa đến một địa). Vì sao? Tất cả được lưu xuất từ tự tính. Hơn nữa, sau khi quý vị có thể nghe được, là quý vị có thể minh tâm kiến tính. Kiến tính thành Phật, giống như Ngài Huệ Năng vậy.

“Lăng Già kinh vân: Sơ Địa tức Bát Địa, nãi chí vô sở hữu hà thứ đẳng” (Kinh Lăng Già nói: Sơ Địa tức Bát Địa, cho đến không có gì là thứ bậc). Ở trong đây không có thứ bậc, thật là một tức hết thảy, hết thảy tức một. Sơ Địa tức Bát Địa đó là ví dụ. Sơ Trụ, trong kinh Hoa Nghiêm tức Sơ Địa, Bát Trụ tức Bát Địa, nó không có cấp bậc, thứ tự. Đây gọi là Đốn Giáo.

Viên Giáo, “Thống cai tiền tứ, viên mãn cụ túc: (Thống lĩnh bốn giáo trước: Tiểu, Thỉ, Chung, Đốn, đều viên mãn cụ túc).

“Sở thuyết duy thị vô tận pháp giới, tính hải viên dung, duyên khởi vô ngại, tương tức tương nhập, đế võng trùng trùng, chủ bạn giao tham, vô tận vô tận, nhất vị tức nhất thiết vị, nhất thiết vị tức nhất vị. Thị cố thập tín mãn tâm, tức nhiếp nhất thiết vị, viên thành chính giác” (Những gì thuyết chỉ là vô tận pháp giới, tính hải viên dung, duyên khởi vô ngại, tương tức tương nhập, mắt lưới trùng trùng, chủ bạn giao tham, vô tận vô tận, một vị tức hết thảy vị, hết thảy vị tức một vị. Vì thế, Thập tín tâm đầy đủ liền thu nhiếp hết thảy vị, viên thành Chính giác).

Trong kinh điển Đại thừa, Hoa Nghiêm là Viên Giáo, Pháp Hoa là Viên Giáo, bộ kinh này cũng là Viên Giáo. Chưa sinh về thế giới Tây Phương Cực Lạc thì không viên. Vừa vãng sinh là viên rồi, đến thế giới Cực Lạc, thật sự là một tức hết thảy. Một vị tức hết thảy vị. Nếu như chúng ta sinh về bên đó, địa vị khi chúng ta đi, là Phàm Thánh Đồng Cư Độ hạ hạ phẩm vãng sinh, là vị thứ như vậy. Nhưng mà đến thế giới Cực Lạc, cái vị này lập tức biến thành hết thảy vị.

Nếu chúng ta qua lại với Quan Âm và Thế Chí, thì chắc chắn là địa vị bằng nhau. Nếu địa vị không bằng nhau, thì không thể qua lại được, như thế thì quý vị biến thành Đẳng giác rồi. Đây gọi là pháp khó tin, thật sự không thể nghĩ bàn! Phàm Thánh Đồng Cư Độ hạ hạ phẩm, mà có thể qua lại với Bồ tát thượng thượng phẩm ở Thật Báo Trang Nghiêm Độ. Bậc cổ đức cho chúng ta biết, tất cả kinh điển mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói trong suốt 49 năm, Ngài không nói điều này, chỉ nói qua ở trong pháp môn Tịnh độ, tuyệt đối không phải do bản thân mình tu thành, mà là bản nguyện oai thần gia trì của đức Phật A Di Đà.

Vì thế, tôi thường nói đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, quý vị đón nhận sự tiếp đãi. Ngày nay, người ta thường nói là “cấp biệt” (chu cấp riêng), quý vị đến địa vị nào? Địa vị Bồ tát A Duy Việt Trí, hưởng quyền lợi của Bồ tát A Duy Việt Trí, quyền lợi của Bồ tát địa, Sơ Địa tức là Bát Địa.

Chúng ta hiểu rõ lý này, biết được chân tướng sự thật rồi, mà quý vị còn chấp nhận đi đường vòng nữa hay sao? Tôi tin rằng những người thật sự hiểu được rõ ràng, họ sẽ buông bỏ vạn duyên, buông bỏ tất cả pháp của thế gian và xuất thế gian, như Đại sư Liên Trì vậy.

Đại sư Liên Trì thị hiện cho chúng ta thấy, đối với pháp môn này, Ngài không hiểu rõ ràng minh bạch, Ngài cũng muốn thông Tông thông Giáo, quảng học đa văn. Sau khi hiểu rõ ràng rồi, Ngài bèn nói rằng: “Tam tạng mười hai bộ loại nhường cho người khác ngộ”. Quý vị ai muốn học, thì đi mà học, “tám mươi bốn ngàn hạnh để cho người khác hành”, quý vị thích cái nào, thì cứ đi mà học. Bản thân Ngài chỉ một bộ kinh Di Đà, một câu niệm Phật, một môn thâm nhập, trường thời huân tu, không có tâm niệm thứ hai, làm cho chúng ta thấy. Không hiểu rõ ràng minh bạch, và sau khi hiểu rõ ràng minh bạch, là hai người, chứ không phải là một người.

Pháp môn này thành tựu rồi, chúng ta xem Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, xem những chuyện vãng sinh trong Đại Tạng Kinh, là những người xưa, quan sát kỹ những người niệm Phật xung quanh chúng ta, đại đa số đều là 3 năm. Người ta 3 năm là có thể thành công, vì sao chúng ta 3 năm mà không thành công được? Người ngoại quốc nói tai nạn, chẳng phải là năm 2012 sao?

Chúng ta còn cách đúng 3 năm, người giác ngộ nên làm thế nào đây? Hẹn kỳ thủ chứng, tôi có được thế giới Tây Phương Cực Lạc rồi, tai nạn đến cũng được, không đến cũng được, chẳng liên quan gì đến tôi. Nó đến, thì mình về thế giới Cực Lạc. Nó không đến, mình ở đây thêm vài năm nữa cũng được. Ở mấy năm nữa để làm gì? Ở lại để độ chúng sinh. Vì sao vậy? Vì bản thân mình đã được độ rồi, thì mới có thể độ người, quý vị mới thật sự là vô ngại. Bản thân mình còn chưa được độ, mà muốn độ người, trong kinh nói rất hay, “vô hữu thị xứ”, nghĩa là không có cái lý này. Muốn độ người, trước phải độ mình.

Ngày này, chúng ta biết được, độ mình không gì khác ngoài việc buông bỏ. Buông bỏ, thì được độ. Buông bỏ Kiến Tư phiền não, thì quý vị chứng được quả A La Hán; buông bỏ Trần Sa phiền não, quý vị sẽ thành Bồ tát; buông bỏ Vô minh phiền não, quý vị sẽ thành Phật. Tất cả đều ở trong một niệm.

Học Phật là học điều gì? Học buông bỏ, không được học phân biệt, chấp trước. Học phân biệt, chấp trước, thì quý vị sẽ bị thiệt thòi lớn. Vì sao? Trong tự tính thanh tịnh không có gì hết, nó chỉ có trí tuệ, đức năng, tướng hảo, mà trong tự tính vốn sẵn có. Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, trong tự tính vốn không có.

Quý vị vốn là Phật, nhưng bị những thứ này che lấp, khiến cho Phật tính của quý vị không thể hiện tiền, khiến cho trí tuệ, đức năng, tướng hảo không thể hiện tiền. Trong tất cả kinh điển, đức Phật đã nói cho chúng ta biết rõ. Ngày nay, chúng ta cũng học được, cũng hiểu rõ. Điểm khiếm khuyết hiện nay chính là buông bỏ, xem quý vị buông bỏ được bao nhiêu. Nhưng đừng lo, chân thật niệm Phật cầu sinh Tịnh độ là được rồi. Quý vị có thể buông bỏ được bao nhiêu, sau khi về đến thế giới Cực Lạc, thì địa vị tam bối cửu phẩm trong 4 cõi không tương đồng. Chỉ cần phát Bồ đề tâm. Nhất hướng chuyên niệm, sinh về Tây Phương Tịnh Độ, vãng sinh về thế giới Tây Phương Cực Lạc, chắc chắn tương đồng. Sinh về nơi đó, phẩm vị không giống nhau. Điều này liên quan đến việc quý vị buông bỏ được bao nhiêu. Vì vậy, điều này không phải là cạnh tranh với người khác, mà là cạnh tranh với chính mình. Tôi muốn phẩm vị cao, thì tôi phải buông bỏ nhiều một chút. Tôi cũng không muốn cao như vậy, thì chỉ cần niệm Phật qua loa là được rồi. Tin sâu, nguyện tha thiết, thì chắc chắn quý vị được vãng sinh.

Đoạn thứ hai dưới đây nói về Nhị giáo. “Nhị giáo. Dĩ thượng phán giáo tuy hữu bất đồng, đản đốn tiệm nhị giáo chư gia đồng nhiếp” (Hai giáo. Phán giáo trên đây tuy có bất đồng, nhưng 2 giáo Đốn và Tiệm thì các học thuyết khác đồng có).

Trước đây có giảng qua, đời Tùy Đường, phân giáo có 12 học thuyết, mà trong Hoa Nghiêm Sớ Sao đều có đề cập đến. Quan trọng nhất, ngoài Thiên Thai và Hiền Thủ ra, còn có Nhị giáo. Mỗi vị Tổ sư Phán giáo đều khẳng định có 2 giáo Đốn, Tiệm.

Phật giáo Trung Quốc tự xưng là tôn giáo, nhưng nên biết Phật giáo không phải là tôn giáo. Ngày ấy, xưng là tôn giáo, thật khác với ý nghĩa của tôn giáo ngày nay. Trung Quốc xưng tôn giáo chính là hai giáo Đốn, Tiệm. Thiền Tông thuộc về Đốn Giáo, ngoài ra đều thuộc về Tiệm Giáo.

Thiền Tông nói đốn ngộ, không có giai cấp. Ngoài Thiền Tông ra, bao gồm 9 tông phái của Tiểu thừa, đều thuộc về Tiệm Giáo, cũng có nghĩa là từng bước từng bước hướng thượng nâng lên. Chỉ có Thiền Tông không có giai cấp, họ khai ngộ là thành Phật. Thành Phật là giai cấp nào? Ít nhất là Sơ Trụ của Viên Giáo. Họ thật sự siêu việt lục đạo, siêu việt mười pháp giới. Điều này, không phải người thường mà có thể làm được.

Chúng ta thấy được hai điển hình, đức Phật Thích Ca Mâu Ni là Đốn Giáo, đốn xả, lập tức buông bỏ, một lần là buông bỏ hết vọng tưởng phân biệt, chấp trước. Người thứ hai biểu diễn cho chúng ta thấy, là Lục Tổ Huệ Năng của Thiền Tông, Ngài cũng là đốn xả, đốn ngộ, đốn chứng. Ngày xưa, năm đức Phật 30 tuổi, Huệ Năng Đại sư 24 tuổi. Vấn đề ở chỗ có chịu buông bỏ hay không. Vấn đề này không ở người khác, mà hoàn toàn ở mình, hơn nữa người người bình đẳng.

Đốn, tôi thấy có Viên, Đốn, và không Viên, Đốn. Thế nào gọi là không Viên, Đốn? ý tôi muốn nói theo trong kinh Hoa Nghiêm, buông bỏ chấp trước, quý vị chứng được A La Hán, đó cũng là đốn chứng A La Hán, nhưng mà không viên mãn, chứng Phật mới là viên mãn. Nếu quý vị buông bỏ được phân biệt, thì quý vị chứng được quả vị Bồ tát. Bồ tát ở đây là Phật, Bồ tát, nghĩa là hai tầng bên trên Thanh Văn, Duyên Giác trong mười pháp giới.

Thanh Văn, Duyên Giác là buông bỏ Kiến Tư phiền não. Phật, Bồ tát là buông bỏ Trần Sa phiền não, nghĩa là không còn phân biệt. Không phân biệt, nhưng vẫn còn khởi tâm động niệm. Sau khi buông bỏ khởi tâm động niệm, đó là Viên, Đốn, là đốn ngộ viên mãn. Mười pháp giới không có, người này siêu việt mười pháp giới, người này sinh về Thật Báo Trang Nghiêm Độ của chư Phật Như Lai. Sinh về nơi đó, mới gọi là Viên, Đốn, không phải là chuyện dễ dàng đâu. Chúng ta ngày nay không có năng lực này. Kêu chúng ta lập tức buông bỏ Kiến Tư phiền não, thì ta buông không được. Chúng ta làm từ từ, buông từng chút từng chút, xả từng chút từng chút.

Vì thế đứng về mặt căn tính mà nói, so với người xưa chúng ta còn cách quá xa, nhưng cũng còn may, cũng còn buông bỏ được một chút. Mỗi năm buông một chút, năm nào cũng buông, tích lũy lại nhiều năm, thì cảnh giới cũng khá đấy. Nếu như chỉ học mà không chịu buông bỏ, nói cho quý vị biết, như thế là biến thành Phật học rồi. Tri thức của quý vị rất phong phú, nhưng cảnh giới của quý vị không thể nâng cao. Nói về cảnh giới, thì quý vị vẫn dậm chân tại chỗ.

Quý vị có thể nói thiện đạo. Quý vị giảng kinh điển giống như người xưa hình dung là ba hoa chích chòe. Sinh tử vẫn là sinh tử, quý vị không ra khỏi lục đạo luân hồi, ở trong lục đạo tùy theo nghiệp lực mà lưu chuyển. Ở đây có nghĩa là nói được không làm được, không có trí tuệ chân thật. Do đó, sau khi hiểu rõ, tu tập là điều quan trọng hơn tất cả. Tu tập chính là buông bỏ. Không chịu buông bỏ, thì không ra khỏi được luân hồi lục đạo. Chân tướng sự thật này chẳng thể không biết. 2 tông Thiên Thai và Hiền Thủ, cũng lấy 2 giáo Đốn, Tiệm mà phân làm 4 giáo, 5 giáo.

Ngũ Giáo Chương vân: “Hoặc phân vị nhị, sở vị tiệm đốn, dĩ thỉ chung nhị giáo, sở hữu giải hạnh, bỉnh tại ngôn thuyết, giai vị thứ đệ, nhân quả tương thừa, tùng vi chí trước, thông danh vi tiệm” (Ngũ Giáo Chương ghi: Hoặc phân làm 2, đó là Tiệm, Đốn. Vì 2 giáo Thỉ, Chung sở hữu Giải, Hạnh, dựa trên ngôn thuyết, đều là nói thứ lớp, nhân quả nương nhau, từ nhỏ đến lớn, gọi chung là Tiệm).

Trong Tông Thiên Thai, Tạng, Thông, Biệt, đều thuộc về Tiệm Giáo. Trong Tông Hiền Thủ, Tiểu, Thỉ, Chung, có thể nói đều thuộc về Tiệm Giáo.

“Ngôn thuyết đốn tuyệt” (Ngôn thuyết dứt ngay). Tuyệt ở đây là đoạn hết. “Lý tính đốn hiển, giải hạnh đốn thành, nhất niệm bất sinh tức thị Phật đẳng” (Lý tính hiển ngay, Giải, Hạnh thành ngay, một niệm không sinh, tức là bằng Phật). Bình đẳng với Phật, đây gọi là đốn. Đốn là một lần, một thời là buông bỏ hết, không phải làm từ từ từng tí, từng tí một đâu. Một lần là xả bỏ hết.

Đời nhà Tùy ở Trung Quốc, Ngài Huệ Viễn Đại sư, phân bản kinh dạy rằng, ở đây đưa Huệ Viễn Đại sư làm ví dụ. Cuốn Chú giải của Huệ Viễn Đại sư lưu hành rất nhiều ở Trung Quốc. Ngày xưa, tôi học kinh Hoa Nghiêm ở Đài Trung, là học cuốn Chú giải của Ngài. Ngài Huệ Viễn đây không phải Ngài Huệ Viễn đời Tấn, tên gọi hoàn toàn giống nhau, ở trong Phật giáo sử, gọi là Tiểu Huệ Viễn. Ngài là người đời nhà Tùy. Các vị sau này thấy ở trong cuốn Chú sớ của người xưa, thấy Tiểu Huệ Viễn là chỉ cho Ngài. Ngài có chú giải kinh Vô Lượng Thọ. Chú giải rất hay, Ngài đã dùng cuốn sách của Khang Tăng Khải, dịch vào đời Ngụy, là cuốn lưu hành rộng rãi nhất trong 5 loại nguyên dịch. Ngài phán bộ kinh này chính là Tịnh Ảnh Sớ. Tịnh Ảnh Sớ là bộ sớ do Ngài Huệ Viễn Đại sư viết vào đời Tùy.

“Kim thử kinh giả, nhị tạng chi trung, Bồ tát tạng thư” (Nay kinh này thuộc Bồ tát tạng trong Nhị tạng). Kinh này chỉ cho kinh Vô Lượng Thọ.

“Vị căn thục nhân Đốn giáo pháp môn” (Là pháp môn Đốn Giáo cho người căn cơ thuần thục). “Vân hà tri đốn” (Làm thế nào biết là Đốn Giáo?).

“Thử kinh chính vi phàm phu trung nhân, yếm úy sinh tử, cầu chính định giả, giáo lệnh phát tâm, sinh ư Tịnh độ, bất tùng tiểu đại, cố tri thị đốn” (Kinh này chính vì người trong phàm phu chán sợ sinh tử, cầu chính định, mà dạy cho phát tâm, sinh ở Tịnh độ, không theo Tiểu, Đại, cho nên biết là Đốn). Chúng ta thử nghĩ xem, nó có thuộc về Đốn Giáo hay không? Thật sự phát tâm cầu sinh Tịnh độ, thì phải xả bỏ cái thế gian này. Nếu quý vị không buông bỏ, thì không đi được đâu. Quý vị không thể mang theo thế giới Sa bà này.

Vì thế, Hòa thượng trong niệm Phật đường là Đường chủ, dẫn dắt người niệm Phật, thường xuyên nhắc nhở mọi người, thân tâm thế giới tất cả buông bỏ hết, nhất tâm chuyên niệm cầu sinh Tịnh độ. Đây là câu nói cửa miệng của Đường chủ. Thời thời khắc khắc nhắc nhở mọi người, thân tâm thế giới phải buông bỏ hết, đốn xả đây, thế quý vị mới được vãng sinh chứ.

Người thông minh nên biết rằng, những thứ mang đi được, thì mới nỗ lực nghiêm chỉnh mà làm, những thứ không mang được thì buông bỏ hết, không cần phải bận tâm nữa. Quý vị nhìn xem cái gì có thể mang đi được?

Niệm Phật. Câu niệm Phật này mang theo được. Cái tâm phát Bồ đề tâm này mamg theo được, còn những cái khác, thì không mang theo được. Không mang theo được, thì phải xả bỏ hết. Mang theo được, quý vị nhất hướng chuyên niệm.

Thật sự đây không phải từ tiểu, đại, nó không phải là tiệm tu, nó là Đốn Giáo, trong một đời là thành tựu được.

“Minh Đại Hựu sư phán tiểu bản viết, đốn tiệm phân chi, thử thuộc Đốn giáo” (Đời Minh, Đại Hựu pháp sư có chú giải cuốn kinh Di Đà tiểu bản, nói: trong hai Đốn, Tiệm, đây thuộc Đốn Giáo”).

Trong chú giải, Ngài cũng khẳng định nó thuộc về Đốn Giáo. Tiệm Giáo phải tu nhiều đời nhiều kiếp mới có thể thành tựu, còn Đốn Giáo thì một đời là được viên mãn.

Chư vị tổ sư phân định 2 bản kinh đại và tiểu. Đa số đều nói như kinh này thuộc về Đốn Giáo.

Trên đây y theo 2 giáo Đốn, Tiệm mà phán. Ở đây dùng Ngũ giáo của Tông Hiền Thủ làm tiêu chuẩn, phán giáo tướng của bản kinh.

Chư vị tổ sư của Tông Tịnh Độ từ xưa đến nay, từ trong ra ngoài, vì cơ duyên bất đồng, mà dùng từ có khác, nhưng thực chất, không ai không cho kinh này, chẳng những thuộc về Viên, Đốn Giáo, mà còn là đốn trong đốn, viên trong viên vậy. Ở đoạn sau lão cư sĩ còn giải thích:

Đời Thanh, cư sĩ Bành Nhị Lâm, tức là Bành Tế Thanh, viết Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận phân định kinh này, (Đây không phải là Đại thừa Khởi Tín Luận). Trong bài luận văn đầu tiên ông ấy ghi: “Kinh Vô Lượng Thọ là Như Lai gọi là tính của Viên Giáo”. Bành cư sĩ, thông Tông, thông Giáo, Hiển Mật viên dung. Là một vị cư sĩ tại gia, ông là người vào thời Càn Long, nhà Thanh. Xuất thân từ gia đình vọng tộc, phụ thân của ông làm quan rất lớn, là Binh bộ Thượng thư của Hoàng đế Càn Long, giống như Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ngày nay.

Cha của ông ấy rất thông minh. Thanh niên 19 tuổi đi thi đỗ tiến sĩ, nhưng vì môi trường trong gia đình tốt, nên không làm quan. Ông ấy thích học Phật, suốt ngày sinh hoạt cùng các vị cao tăng trong đạo Phật. Ông ấy rất chuyên tâm học, rất thành tựu, cho nên ông ấy viết cuốn Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận, và cuốn Tiết bản kinh Vô Lượng Thọ, không phải là hội tập mà là tiết bản, phía sau có đề cập đến.

Ông từng nói một câu, sau này người ta thường dẫn chứng. Ông nói: Pháp môn này là một ngày hy hữu khó gặp trong vô lượng kiếp. Chúng ta có nhân duyên gặp được pháp môn này, ý nghĩa rất gần với câu trong bài Kệ Khai Kinh do Võ Tắc Thiên viết, “Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ”. (Trăm ngàn muôn ức kiếp khó gặp). Quý vị gặp được pháp môn này, phải nắm chắc lấy nó, không được xem thường mà bỏ qua. Bỏ qua, thì thật đáng tiếc. Vô lượng kiếp mới chỉ gặp một lần. Câu nói này khiến cho chúng ta biết quý trọng. “Thân người khó được, Phật pháp khó gặp”. Có thể được nghe pháp viên trong viên, đốn trong đốn trong Phật pháp, tìm ở đâu ra chứ?

Chúng ta được nghe rồi mà lại bỏ qua, không thể nắm bắt được, không thể thành tựu trong một đời này. Nguyên nhân vì sao vậy? Tuy nghe nói, nhưng hiểu không được thấu triệt, hiểu không được rõ ràng, sơ ý cẩu thả, không nghiêm chỉnh học tập, suốt đời này vẫn chịu sự luân hồi lục đạo như cũ. Quý vị xem có đáng tiếc không.

Vì vậy, chư Phật, Bồ tát thị hiện ở thế gian này, vì chúng ta mà hội tập, hoàn thiện bản kinh này. Lại gặp được Hoàng Niệm Tổ lão cư sĩ, cuối đời Ngài bị bệnh mà vẫn hoàn thành cuốn chú giải này, thật không dễ dàng! Trong cuốn chú giải dẫn chứng kinh luận xưa và nay. Luận sớ có 193 bộ, chứng minh rằng những điều trong kinh điển nói, những điều chư vị tổ sư nói, làm tăng trưởng lòng tin của chúng ta đối với pháp môn này. Ngài dụng tâm vất vả, thật sự là từ bi đến cùng tột.

Đọc kinh không hiểu, chúng ta xem lại cuốn chú giải này. Trong cuốn chú giải này thấy được rất nhiều điều trong kinh nói, rất nhiều điều chư vị Tổ sư nói trong luận sớ, còn không động lòng sao? Còn không biết sự quý giá của bộ kinh này sao? Sau thời Mạt pháp 9.000 năm, tất cả chúng sinh nương vào đâu để được độ? Nương vào bộ kinh này đấy. Bộ kinh này phải lưu hành với số lượng lớn. Lần đầu tiên, tôi in cuốn chú giải này, đã in một vạn cuốn.

Lần đầu tiên in cuốn hội tập của Hạ Liên lão, cũng in 10.000 cuốn. 10.000 cuốn phân lượng quá ít, so với địa cầu này có sáu mươi ức người. Cũng may, nhiều năm nay, chúng tôi lợi dụng TV vệ tinh, mạng Internet, đem sự học tập của chúng tôi, thông qua những truyền thông hiện đại ngày nay, chia sẻ cùng những người có duyên trên toàn thế giới.

Gần đây nghe nói, thiên tai càng ngày càng nhiều, thật sự từ góc độ truyền thông cho chúng ta thấy, tần số không ngừng nâng cao, tai nạn càng ngày càng nghiêm trọng. Vì vậy, chúng tôi tạm thời ngừng kinh Hoa Nghiêm. Hy vọng dùng thời gian một năm, chúng ta ôn tập lại từ đầu cuốn chú giải của Hoàng Niệm lão. Hạ lão và Hoàng lão không phải là người thường, bởi người bình thường không thể làm được việc như vậy. Chúng ta làm cách nào để báo ơn đây? Y giáo phụng hành, lưu hành rộng rãi, đó thật sự là báo Phật ân, báo ân cho hai vị này.

Dưới đây, dẫn chứng cuốn Vô Lượng Thọ Kinh Chân Giải, của Đạo Ẩn pháp sư người Nhật, viết:

“Trực phán bản kinh vi bản nguyện nhất thừa, đốn cực đốn tốc, viên dung viên mãn chi giáo, bỉ thổ đại đức đa đồng thử thuyết” (Phán thẳng kinh này là bản nguyện Nhất thừa, đốn cực đốn tốc, giáo lý viên mãn, viên dung, các Đại đức ở nước kia phần nhiều đồng với thuyết này).

Nước kia là nước Nhật. Tịnh độ tông ở Nhật rất hưng thịnh. Vào đời Tùy Đường, nước Nhật đã cử đi không biết bao nhiêu cao tăng đến Trung Quốc du học, họ đã thân cận Thiện Đạo Đại sư, thân cận Trí Giả Đại sư, cho nên hai vị Đại sư này ở Nhật rất nổi tiếng. Trong các ngôi chùa Phật giáo ở Nhật, đều có thể thấy được tượng đắp, tượng vẽ Đại sư. Ở Phật giáo Trung Quốc không thấy tượng đắp, tượng vẽ này, nhưng ở Nhật Bản thì thấy được.

Người Nhật đối với Tổ sư tôn trọng hơn người Trung Quốc. Người Trung Quốc, thứ nhất là kính Phật, thứ hai là kính Tổ sư. Người Nhật thứ nhất là kính Tổ sư, thứ hai là kính Phật. Có lý đấy, tổ sư gần với chúng ta hơn, giống như chúng ta thứ nhất là kính cha mẹ, thứ hai là kính tổ tông. Người Nhật truyền thừa truyền thống văn hóa bản địa, cho đến ngày nay vẫn không suy. Đây là chỗ đáng cho chúng ta tôn kính.

“Đại Kinh Thích viết, Thiên Thai, Chân Ngôn tuy giai minh Đốn giáo, nhiên bỉ hứa đoạn hoặc chứng lý, cố do thị tiệm giáo dã, minh vị đoạn hoặc phàm phu, trực xuất tam giới giả, thiên thị thử giáo” (Đại Kinh Thích nói: Thiên Thai, Chân ngôn tuy đều nói là Đốn Giáo, nhưng họ chấp nhận việc đoạn hoặc chứng lý. Do đó là Tiệm Giáo. Nói phàm phu chưa đoạn hoặc được ra thẳng Tam giới, thì riêng chỉ có giáo lý Tịnh độ này).

Ở đây, dùng Thiên Thai, Chân ngôn là Mật Tông, để so sánh. Thiên Thai và Mật Tông tuy đều gọi là Đốn Giáo, nhưng họ thế nào? Họ cũng đồng ý đoạn hoặc chứng lý, đoạn hoặc chứng lý vẫn thuộc về Tiệm Giáo, tiệm thứ, giống như chúng tôi vừa giảng. Đoạn Kiến Tư phiền não chứng A La Hán, kế đến đoạn Trần Sa chứng Bồ tát, cuối cùng đoạn Vô minh mới chứng được Phật quả.

Là tiệm đoạn, nó vẫn còn là từng cấp bậc từng cấp bậc. Kinh Vô Lượng Thọ này không như vậy, nói về phàm phu chưa đoạn hoặc, chưa đoạn một phẩm phiền não nào, là có thể trực tiếp siêu xuất tam giới, chẳng những siêu xuất tam giới, mà còn siêu xuất mười pháp giới. Khi đem so sánh hai cái này, cho nên giáo này là đốn trong đốn; chứng minh sự kiến giải này là có lý do, chứ chẳng phải tùy tiện nói.

“Hựu Nhật Khê sư vân” (Lại, sư Nhật Khê nói) “Thánh đạo chư giáo, lý thị viên dung, lợi ích thị cách thiên, dĩ kỳ đốn cơ nan đắc dã. Thị dĩ giáo tuy viên đốn, vọng cơ tự thành tiệm, Tịnh độ ngôn viên đốn giả, ư viên mãn tốc tật lợi ích” (Giáo pháp đạo Phật, lý thì viên dung, lợi ích thì cao vút tận trời, vì đốn cơ khó có được. Vì thế đây tuy Viên, Đốn, hướng đến căn cơ tự nhiên thành tiệm. Tịnh độ nói Viên, Đốn mà lợi ích lại viên mãn nhanh chóng).

Đây là đứng từ góc độ khách quan để quan sát. Thánh đạo chư giáo, ở đây nói đến toàn bộ Phật giáo. Tất cả kinh điển mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói trong suốt 49 năm. Chư giáo là tất cả kinh, lý là viên dung, điều này là chân thật. Vì sao vậy? Vì kinh giáo Đại thừa, Tiểu thừa, đều lưu xuất từ trong tự tính của đức Thế Tôn mà ra, thì làm gì có chuyện không viên dung! Nhưng mà lợi ích, thì không đồng. Cá nhân mỗi người được lợi ích không tương đồng. Đó là gì vậy? Đó là vì căn tính Viên, Đốn quá khó, trong ức vạn người khó có được một người, bậc căn cơ như Lục Tổ Huệ Năng. Ba thầy giáo của tôi, Phương Đông Mỹ tiên sinh, Chương Gia Đại sư, thầy Lý, không họp lại nhưng nói với tôi những lời giống nhau: Bậc căn tính giống như Lục Tổ Huệ Năng, trước Lục Tổ Huệ Năng không có, chưa từng thấy. Từ khi Lục Tổ Huệ Năng qua đời cho đến ngày nay, cũng không thấy có.

Ba vị thầy đều nhắc nhở tôi không được học theo Ngài, học không được đâu. Phương Đông Mỹ tiên sinh nói với tôi, đó gọi là một bước lên trời. Lên được thì thành công, không lên được mà ngã xuống thì tan xương nát thịt. Ba vị thầy đều nhắc nhở tôi, đừng học Đàn Kinh, đừng học Ngài Huệ Năng. Phương Đông Mỹ tiên sinh giới thiệu với tôi, học Phật nên hạ thủ từ Pháp Tướng Tông, từ Bách Pháp Minh Môn mà nhập môn, giống như leo cầu thang vậy, từng bậc từng bậc mà bước lên, thì thật sự được lợi ích.

Chương Gia Đại sư muốn tôi tu tâm thanh tịnh, học theo đức Phật Thích Ca Mâu Ni, lấy đức Phật Thích Ca Mâu Ni làm mô phạm, nói tôi đọc Thích Ca Phương Chí, đọc Thích Ca Phổ. Học Phật đầu tiên nhận biết đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài là một người như thế nào, thì sự học tập của chúng ta sẽ không bị lầm đường, sẽ không bị lạc lối.

Tôi quen biết thầy Lý. Thầy Lý giới thiệu cho tôi pháp môn Tịnh độ. Thầy đem cuốn hội tập bản kinh Vô Lượng Thọ truyền lại cho tôi, thật là hữu dụng. Vì thế, nói căn tính không tương đồng, chúng ta không phải dạng căn tính Viên, Đốn nên cần phải nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu, kiên nhẫn miệt mài. Trong sự học tập của quý vị nếm được mùi vị, gọi là pháp vị. Chư vị tổ sư thường nói rằng: “Vị Thế gian đâu đậm bằng vị Pháp”. Vị Thế gian là nói về lục đạo luân hồi, mang ra so với Phật pháp, thì còn cách xa lắm, vị Pháp thật sự đậm hơn vị Thế. Vị Pháp là sự hỷ duyệt được lưu xuất từ trong tự tính. Quý vị có thể học được từ chỗ thánh nhân, đem áp dụng vào trong cuộc sống hàng ngày của chính mình, thì trong nội tâm của quý vị sẽ sinh pháp hỷ. Hỷ duyệt được lưu xuất ra từ trong nội tâm, không phải từ môi trường bên ngoài, không liên can gì tới ngoại cảnh.

Các vị Tổ sư trong Phật giáo nói còn nhiều hơn nữa, sau khi quý vị thật sự khế nhập vào kinh điển, nếm được pháp vị, thường sinh tâm hoan hỷ, pháp hỷ sung mãn. Các vị chớ nên xem thường lời này. Lời này nếu như quý vị hiểu rõ, thì quý vị sẽ được lợi ích lớn. Ngạn ngữ của thế gian thường nói: “Nhân phùng hỷ sự tinh thần sảng” (Người gặp việc vui, tinh thần sảng khoái). Nói cách khác, quý vị phải cảm nhận được dưỡng sinh. Người có tuổi từ trung niên trở lên đều cảm nhận được tầm quan trọng của việc dưỡng sinh. Thân tâm khỏe mạnh rất quan trọng, đó là phúc báo thật sự. Khỏe mạnh từ đâu mà có? Khỏe mạnh từ tâm hoan hỷ mà có. Nếu ngày nào quý vị cũng mặt mày nhăn nhó khổ sở, chắc chắn bị nhiều bệnh, thì lấy đâu ra tâm hoan hỷ nữa, cho nên không khỏe mạnh. Mạnh khỏe có từ tâm hoan hỷ. Ngày nào cuộc sống cũng vui vẻ, thì người này thân tâm khỏe mạnh, không sinh bách bệnh, tuổi tác tăng trưởng, già mà không suy, đó là phúc báo đấy.

Quý vị muốn có được phúc báo lớn này, thì trong kinh điển Đại thừa có rất nhiều, chỗ nào cũng có. Đây là Phật pháp đối với chúng ta trực tiếp nhất, cũng là một số ít lợi ích. Quý vị có được sự lợi ích này, thì chắc chắn thân tâm khỏe mạnh, gia đình mỹ mãn, sự nghiệp thuận lợi, rộng ra thì xã hội an định, thế giới hòa bình. Trong Phật pháp gọi đó là tiểu lợi, chứ không phải là đại lợi. Đại lợi là giúp cho quý vị thành Bồ tát, thành Phật, quý vị có năng lực ở trong biến pháp giới hư không giới giáo hóa chúng sinh. Đó là đại lợi ích.

Bởi vì đốn cơ khó được. Những người như chúng ta không thuộc về hàng đốn cơ, mặc dù giáo Viên, Đốn, là thật. “Viên nhân thuyết pháp, vô pháp bất viên”. (Người Viên nói pháp nào cũng Viên). Xem tất cả kinh điển mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói trong suốt 49 năm, không có câu nào không là pháp môn Viên, Đốn. Vì vậy, chúng ta chẳng phải là hàng căn cơ Viên, Đốn. Xem Hoa Nghiêm, xem Pháp Hoa, xem bộ kinh này, đều biến thành Tiệm Giáo, đó là sự thật. Tịnh độ nói Viên, Đốn là ở đây quay trở lại pháp môn mà chúng ta đang tu học ngày nay, “lợi ích viên mãn và nhanh chóng”. Vì sao nói Tịnh độ là Viên, Đốn? Vì nó nhanh chóng khiến cho người tu học đạt được lợi ích viên mãn, vãng sinh về thế giới Tây Phương Cực Lạc. Đây là sự thật, không dối gạt đâu.

Phàm phu hạ phàm, phàm phu hạ đẳng, không có trí tuệ, người thời nay nói không có văn hóa. Gặp được pháp môn này, họ tin tưởng, thậm chí họ nghe không hiểu, chỉ cần họ tin tưởng, nghe thấy pháp môn này hay như vậy, lại dễ dàng như thế, chỉ có một câu A Di Đà Phật. Quý vị xem có dễ dàng không. Khăng khăng không bỏ, cứ thế mà niệm, là có thể thành tựu, hơn nữa thời gian để thành tựu không lâu, 3 năm, 5 năm là thành công rồi. Người này về thế giới Tây Phương Cực Lạc để làm Phật, đạt được lợi ích cứu cánh viên mãn, quý vị thấy có hay không! Quý vị nghĩ xem pháp môn này, kinh điển này có thuộc về Viên, Đốn hay không? Có thể nói được đấy.

Tiếp nói: “Cái chỉ kỳ tha thánh giáo, tuy cụ viên dung chi lý, đản chúng sinh căn cơ thô thiển, mạc minh kỳ chỉ, vô do nhiếp giải khởi hạnh, nhi mông pháp ích, thị cố pháp tuy viên đốn, đản dĩ hành nhân cơ thiển, đốn pháp thành tiệm, viên pháp thành thiên” (Bởi vì các Thánh giáo khác, tuy lý vốn đầy đủ viên dung, nhưng căn cơ chúng sinh thô thiển, nếu không nói rõ tông chỉ, không do đâu mà phát khởi Giải, Hạnh, mà mong được lợi ích của pháp. Cho nên, pháp tuy Viên, Đốn, nhưng vì căn cơ người hành thiển cận. Vì thế, đốn pháp trở thành tiệm, viên trở thành thiên lệch). Đây là chân tướng sự thật, cho nên giáo, phân tông phán giáo, đối với hàng căn cơ nông cạn có cái hay, còn đối với hàng căn tính Viên, Đốn, thì không có lợi ích gì. Điều này chúng ta chẳng thể không biết, đặc biệt là những quý vị phát tâm tương lai học giảng dạy, nhất định phải hiểu rõ ràng.

Bản thân chúng ta tu tập thế nào? Dùng phương pháp nào để dạy người? Bản thân mình tu bộ kinh này là đại kinh Viên, Đốn, nếu hiểu rõ bộ kinh này, thì công phu niệm Phật của quý vị có thể đạt đến Sự Nhất tâm bất loạn, Lý Nhất tâm bất loạn. Những kinh luận khác chưa học qua có thể thông đạt được không? Được! Thật sự là thông một bộ kinh, thì tất cả kinh khác đều thông đạt; thành tựu một pháp môn, thì 84.000 pháp môn đều thành tựu. Trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Một tức hết thảy, hết thảy tức một”, không sai chút nào. Quý vị thật sự có thể tin được, là quý vị có phúc đấy.

“Đản Tịnh Tông tắc bất nhiên, nhân nhân năng hành giai đắc chân thật chi lợi, bất lao đoạn hoặc, trực xuất tam giới, cố thật vi đốn trung chi đốn viên mãn chi giáo dã” (Nhưng Tịnh Tông không vậy, ai ai có thể hành, đều được lợi ích thật sự, chẳng mệt sức đoạn hoặc, mà ra thẳng Tam giới. Thật là giáo pháp Đốn của trong đốn viên mãn vậy).

Hoàng lão kết luận hay quá! Tịnh Độ Tông không giống như Hoa Nghiêm, Thiên Thai, Tam Luận, Pháp Tướng, Mật Tông. Vì sao vậy? Những tông phái đó học tập thật sự phân chia ra rất nhiều tầng lớp, giống như đi học vậy, quý vị phải từ tiểu học, trung học, đại học, Sau đại học, phải tốn thời gian rất dài, mà chưa chắc đã có kết quả. Vì sao vậy? Vì giáo lý học nhiều, sẽ biến thành thường thức, biến thành tri thức, chứ không phải là trí tuệ. Vì sao vậy? Vì chưa buông bỏ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước.

Vì vậy, quý vị vẫn sống trong thế giới phiền não, khổ não như xưa. Quý vị không thể giải thoát. Quý vị không được đại tự tại. Quý vị không có được sự vui sướng thật sự. Muốn đạt được sự lợi ích của Phật pháp thật sự, thì nhất định quý vị phải buông bỏ tập khí phiền não, hồi quy tự tính, tự tính thuần tịnh thuần thiện. Mục tiêu cuối cùng trong việc giảng dạy của đạo Phật, là dạy chúng ta hồi quy tự tính. Phương hướng là một, mục tiêu là một, nhưng phương pháp thì có rất nhiều, cho nên có 84.000 pháp môn.

Chúng ta muốn trong một đời này được thành tựu, thì trong vô lượng pháp môn này chỉ chọn một cửa. Quý vị không nên chọn hai cửa, ba cửa. Nhiều cửa, quý vị không vào được đâu. Một cửa thì vào được. Sau khi vào được, thì quý vị sẽ được tất cả. Cái quý vị được là viên mãn.

Đức Phật nói ra nhiều pháp môn như thế, là để cho người căn tính bất đồng chọn lựa, chẳng phải kêu quý vị phải học hết. Quý vị học hết là quý vị sai đấy. Giống như đang học đại học vậy, chỉ có thể học một khoa thôi, 4 năm thì tốt nghiệp. Nếu quý vị học hết tất cả mọi khoa, thì 400 năm quý vị cũng không thể tốt nghiệp được. Quý vị không thể thành tựu được. Nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu, là đúng rồi. Thật sự hiểu rõ Tịnh Tông, ai ai cũng có thể tin, lợi ích chân thật, không cần đoạn hoặc, mà siêu việt được mười pháp giới, không chỉ tam giới.

Do đó, viên mãn đại giáo Đốn của trong đốn. Câu này nói không sai một chút nào. Hy vọng quý vị chuyên cần nỗ lực, nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu, ai ai cũng được thành tựu, hơn nữa rất mau được thành tựu.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 49)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 48)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 47)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 319
    • Số lượt truy cập : 8549772