TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH GIẢI DIỄN NGHĨA - TẬP 46

Chủ giảng: LÃO PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
*****
Trưởng ban biên dịch:
TK. Thích Đồng Bổn
QUYỂN 5
(Tập 41-50)
TẬP 46
Giảng ngày 21 tháng 5 năm 2010 Tại Tịnh Tông Học Viện Úc Châu
Biên dịch: Tử Hà - Biên tập: Bình Minh
Các vị pháp sư, các vị đồng học, mời xem tiếp Đại thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang thứ 50, dòng thứ 6, từ dưới lên.
“Di Đà Yếu Giải vân, Thích Ca nhất đại thời giáo, duy Hoa Nghiêm minh nhất sinh viên mãn, nhi nhất sinh viên mãn chi nhân, tắc mạt hậu Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm trung, thập đại nguyện vương đạo quy an dưỡng. Thả dĩ thử khuyến tấn Hoa Tạng hải chúng” (DiĐàYếuGiảinói: Một đời thời giáo của đức Phật Thích Ca, chỉ có kinh Hoa Nghiêm nói rõ một đời viên mãn, mà cái nhân để một đời viên mãn thì trong 10 đại nguyện vương của phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện cuối, thì nói quy về An Dưỡng quốc. Hơn nữa, dùng đây để khuyến tấn hải chúng Hoa Tạng).
Đây là lời dạy của Ngẫu Ích Đại sư. Một đời thời giáo là chỉ cho tất cả kinh mà đức Phật nói trong suốt 49 năm. Khi đức Phật còn tại thế, 30 tuổi ngài khai ngộ. Sau khi khai ngộ rồi, Ngài bắt đầu thuyết giáo, thuyết pháp 49 năm, 79 tuổi, Ngài viên tịch, cho nên giảng kinh hơn 300 hội.
Hội ở đây giống như ngày nay chúng ta chia lớp vậy. Một đời Ngài dạy hơn 300 lớp, thời gian dài ngắn không đồng nhau, nội dung giảng dạy sâu cạn cũng không tương đồng. Có khi một bài mà giảng mấy năm, cũng có khi một bài một ngày là giảng xong, tình trạng này rất nhiều. Chúng ta có thể tưởng tượng được, khi còn tại thế đức Phật thuyết pháp không có một chế độ nhất định. Quần chúng ở tứ phương có trường hợp cá biệt đến thỉnh giáo, trường hợp đoàn thể đến thỉnh giáo, đức Phật rất từ bi, không từ chối người nào. Ngài đều khiến cho họ cảm thấy thỏa mãn rồi mới ra về, cho nên đúng là hữu giáo vô loại (dạy người không mỏi).
Những điều Ngài dạy cũng không có định pháp, đức Phật không có định pháp để nói. Người đến thỉnh giáo với Ngài có nghi hoặc điều gì, có vấn đề gì, có kỳ vọng gì, đức Phật đều có thể giúp cho họ giải quyết hết. Đây là tình hình đức Phật giảng dạy vào thời đó. Cũng có một bộ phận gọi là thường tùy chúng. Điều này trong kinh thường đề cập đến, 1.255 vị. Đây là những người thường theo đức Phật, đều theo Ngài mười mấy năm.
Đối với những người này, sự giảng dạy có thứ tự, có sâu cạn, cho nên sau này chư vị tổ sư phán giáo, phân sự thuyết pháp của đức Phật Thích Ca Mâu Ni làm 5 thời kỳ, trước đây chúng tôi có giảng qua. Thời A Hàm, thời Phương Đẳng, thời Bát Nhã, thời Pháp Hoa, giống như ngày nay chúng ta nói, tiểu học, trung học, đại học, Sau đại học. Đối với thường tùy, giúp cho họ từng bước tiến lên.
Đoàn thể này cũng không phải là nhỏ, thường thường là mấy ngàn người, ở đây chúng ta có thể tưởng tượng ra được. Trong kinh nói đức Phật dùng một âm mà thuyết pháp, chúng sinh mọi loài đều hiểu được. Đây là diệu âm, chúng ta khó mà tưởng tượng được. Ngày nay, chúng ta mượn công cụ khoa học, dùng micro để nói, ngày xưa không có những công cụ này.
Đức Phật đăng tòa thuyết pháp, thính chúng có đến vài ba ngàn người. Mọi người đều nghe được rõ ràng, tất cả đều không hoài nghi. Cảnh giới này, chúng ta rất khó tưởng tượng. Đức Phật có năng lực này hay không? Chúng ta tin là có. Thính chúng ngày đó không giống như người bây giờ, tuy có bậc hạ hạ căn, nhưng chúng ta có thể lý giải được. Bậc hạ hạ căn thời đó, đại khái còn giỏi hơn nhiều so với bậc thượng thượng căn ngày nay. Vì sao vậy? Vì tâm người ta thanh tịnh. Người thời nay tâm trạng bồng bột, không có định công đó. Người thời xưa trung hậu lão thành, ít vọng niệm, tâm thanh tịnh, cho nên việc thuyết thính đó sự cảm ứng không thể nghĩ bàn. Đó là một đời thời giáo.
49 năm thuyết pháp, chỉ có kinh Hoa Nghiêm, là giảng đến một đời viên mãn. Một đời nghĩa là từ khi chúng ta bắt đầu học Phật, viên mãn là thành Phật. Chúng ta mới bước vào đạo Phật, giống như đi học vậy. Chúng ta vào tiểu học, cho đến lớp nghiên cứu sinh, nhận được học vị tiến sĩ. Đây gọi là một đời viên mãn. Đức Phật nói những bộ kinh khác, đều không nói đến viên mãn như vậy, có khi nói đến quả vị A La Hán là ngừng, giống như mở trường tiểu học, tốt nghiệp tiểu học rồi, chỉ nói đến tiểu học. Kế đến vào trung học, tốt nghiệp trung học rồi, cũng chỉ nói đến trung học, tốt nghiệp đại học, cũng chỉ nói đến đại học, không nói đến nghiên cứu sinh. Chỉ có Hoa Nghiêm là thật sự cứu cánh viên mãn. Từ lớp một tiểu học nói đến lớp tiến sĩ, chỉ có bộ kinh này là giảng đến viên mãn.
Cái nhân để một đời viên mãn, nghĩa là thành Phật, chứng được Vô thượng Chính đẳng Chính giác, chứng được quả Phật. Nhân chơn chính là trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện cuối cùng, nói: “Mười đại nguyện vương nói quy về An dưỡng”. An dưỡng nghĩa là thế giới Cực Lạc. Điều này chúng ta thấy được trong kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Pháp Giới. Phẩm kinh này rất hiếm có. Chư vị Tổ sư đã dịch sang Trung văn, tổng cộng 40 quyển, gọi là Tứ thập Hoa Nghiêm trong bộ kinh Hoa Nghiêm. Trong Tứ thập Hoa Nghiêm có một phẩm tên là Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, hoàn chỉnh không thiếu. Trong đây, nói về Thiện Tài đồng tử 53 lần tham học, đã thành tựu như thế nào, rất đáng để cho chúng ta học tập.
Ngày xưa, khi tôi mới học Phật, Phương Đông Mỹ tiên sinh nói với tôi, thầy đặc biệt tôn sùng kinh Hoa Nghiêm. Thầy nói tất cả sách triết học trên toàn thế giới, thì bộ kinh Hoa Nghiêm là cuốn triết học khái luận hay nhất. Trong bộ sách này có đạo lý viên mãn, có phương pháp chính xác, phía sau còn có biểu diễn. Điều này thật không dễ. Thiện Tài đồng tử và 53 vị thiện tri thức, đem lý luận và phương pháp trong kinh Hoa Nghiêm, hoàn toàn thực hiện hết, nghĩa là áp dụng vào trong cuộc sống, áp dụng vào trong công việc, áp dụng vào trong cách đối nhân xử thế, đã làm cho chúng ta thấy.
Thầy ấy nói trong sách triết học trên khắp thế giới chưa bao giờ thấy như vậy. Thầy ấy rất tôn sùng, hơn nữa còn hạ thủ công phu trong kinh Hoa Nghiêm rất sâu dày. Vì thế, lúc cuối đời, khi nghỉ hưu ở Trường Đại học Đài Loan, Trường Đại học Phụ Nhân, đây là trường học giáo hội, mời thầy, giảng triết học Hoa Nghiêm ở lớp nghiên cứu sinh. Vì sao vậy? Duy nhất 10 đại nguyện vương nói quy về Cực Lạc, mới thật sự là tam căn phổ bị, lợi đốn toàn thu. Nếu như không có cái này, thì đúng là bậc thượng thượng căn có phần, bậc trung, hạ căn, thì không có phần.
Khi có chiêu này rồi, thì bậc hạ hạ căn cũng một đời thành Phật, một đời viên mãn, cho nên điều này không thể nghĩ bàn. Vào thời kỳ Mạt pháp, chúng ta nên hoằng dương bộ kinh nào đây, mới khế hợp với căn cơ của thời đại này? Trong kinh điển Đại thừa, đức Phật có đề cập đến. Thời kỳ Mạt pháp, Đại thừa khế cơ, chúng ta suy nghĩ kỹ xem, chưa chắc con người trên thế gian hiện nay đều là căn tính Đại thừa. Nếu như nói như vậy, thì thật sự có vấn đề, chẳng phải căn tính Đại thừa, nhưng họ có thể tiếp nhận Đại thừa, mà không thể tiếp nhận Tiểu thừa. Đó là do tầng lớp tri thức ngày nay mở rộng.
Tri thức trong Tiểu thừa rất nhỏ, nó có sự bó buộc, có sự bảo thủ, người thời nay không chấp nhận dạng tư tưởng này. Ngày nay, người ta tiếp nhận sự phóng khoáng, dân chủ, tự do. Trong lúc đó, Đại thừa rất khế hợp với căn cơ như thế, nói về lý sự vô ngại, sự sự vô ngại, người thời nay thích nghe. Nếu quý vị lập ra nhiều quy củ, kêu họ phải tuân thủ, thì họ không chịu nổi. Quý vị xem 3.000 năm trước, sau khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni diệt độ cho đến năm nay, là 3.037 năm, khác với người ngoại quốc nói. Người ngoại quốc nói là hơn 2.500 năm, hơn kém nhau 600 năm, sự khác biệt rất lớn. Rốt cuộc tin tưởng cái nào đây? Điều này chúng ta không cần phải quan tâm đến.
Phật pháp không xem trọng những hình thức này. Phật pháp xem trọng nội chứng, cho nên người Ấn Độ không xem trọng lịch sử. Nói đến niên đại, bản thân họ cũng không rõ ràng. Họ xem trọng thiền định, xem trọng trí tuệ, xem trọng khế nhập cảnh giới, còn những việc phân biệt, chấp trước này, họ không xem trọng.
Nói đến điều này, vào thời buổi hiện nay, học tập kinh Hoa Nghiêm là chính xác. Vì vậy, kinh Hoa Nghiêm, chúng tôi cũng đã giảng thời gian tương đối dài rồi, đã giảng hơn 4.000 tiếng đồng hồ. Tuy chỉ mới giảng được một phần năm, nhưng thính chúng đều rất hoan hỷ. Điều này nói lên trong kinh, đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói không sai. Đại thừa khế hợp với căn tính của người thời nay, họ thích nghe, nhưng chưa chắc họ đã thực hành được. Họ chưa chắc đã khế nhập, nhưng mà họ thích, họ không bài xích. Điều này, chúng ta cần nên biết.
Vừa khế cơ, vừa khiến cho người thời nay thật sự được lợi ích, một đời có thể thành tựu, cho quý vị biết, không gì bằng kinh Vô Lượng Thọ. Do đó, bậc cổ đức bình luận những kinh điển này, mọi người công nhận Hoa Nghiêm là số một. Nếu so với kinh Vô Lượng Thọ, thì kinh Vô Lượng Thọ là một trong số một. Vì sao vậy? Vì Hoa Nghiêm một đời viên mãn. Mười đại nguyện vương cuối cùng nói quy về An dưỡng, nghĩa là quy về kinh Vô Lượng Thọ. Cái này rất có ý nghĩa.
“Hơn nữa, dùng đây để khuyến tấn hải chúng Hoa Tạng”. Câu này là nói Ngài Văn Thù và Ngài Phổ Hiền. Hai vị đại Bồ tát này, chẳng những bản thân mình phát nguyện cầu sinh Tịnh độ, mà còn khuyên hải hội Hoa Nghiêm. 41 vị Pháp thân đại sĩ, đây chẳng phải là 41 người, mà là 41 cấp bậc, gồm Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Đẳng giác. Tất cả các vị pháp thân Bồ tát đây, đều theo Văn Thù và Phổ Hiền, về thế giới Cực Lạc, tham vấn đức Phật A Di Đà, và học tập với đức Phật A Di Đà.
Cảnh giới này đồ sộ biết dường nào. Cử động này, tôi tin rằng sẽ ảnh hưởng đến khắp pháp giới, hư không giới. Tất cả chúng sinh trong mười pháp giới, họ thấy được, họ nghe được, đối với thế giới Tây Phương Cực Lạc, tự nhiên họ sẽ sinh khởi tín tâm và nguyện tâm kiên cố, vì họ đều biết rằng học Phật nên cầu sinh về thế giới Cực Lạc. Ngài Văn Thù và Phổ Hiền biểu diễn cho chúng ta thấy. Đây là chuyện lớn, chứ không phải chuyện nhỏ đâu. Nhưng mà xã hội của chúng ta ngày nay, có rất nhiều người không hiểu rõ Phật giáo, mà sinh ra sự ngộ nhận nghiêm trọng. Sự ngộ nhận này ảnh hưởng không lớn đối với việc hoằng truyền Phật pháp. Ảnh hưởng lớn nhất là gì? Lớn nhất là bản thân họ đời này, không có ý tiếp cận Phật pháp, bỏ lỡ mất cơ hội viên mãn đời này. Đây mới gọi là đại sự!
Việc hoằng truyền Phật pháp không có thời gian, nó không hề gì. Chúng sinh khi nào được độ đức Phật đều biết hết, có rất nhiều người, đời này bị luống qua, thật là đáng tiếc. Phật giáo ở xã hội ngày nay, những tình trạng này, tôi thường nói ngày nay có 6 hình thức bất đồng. Chúng ta nên biết rõ, nhận thức rõ, có người hỏi chúng ta, chúng ta có thể giảng nói rõ ràng.
6 hình thức, hình thức thứ nhất là Phật giáo của đức Phật Thích Ca Mâu Ni chính là giáo dục, nghĩa là sự giáo dục của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Khi đức Phật còn tại thế, cũng giống như Khổng Tử ở Trung Quốc vậy. Địa vị gì? Làm nghề thầy giáo. Ngài không làm việc khác, từ sáng đến tối đều là dạy học. Người Trung Quốc tôn xưng ngài là Thánh nhân, đó là bậc Đại thánh danh xứng với thật. Ngài chẳng phải chỉ đơn độc là ngôn giáo mà còn thân giáo nữa. Những gì Ngài biết được, thì hoàn toàn Ngài làm được. Ngài biết là kiến tính, minh tâm kiến tính, đem Tính đức của tự tính, trong cuộc sống hàng ngày hoàn toàn lưu xuất ra. Chúng ta nói là đạo đức, không hề làm trái ngược lại với Tính đức, làm cho chúng ta thấy, thật sự buông bỏ được! Cuộc sống đơn giản là vui sướng hơn bất cứ điều gì. Điều kiện cuộc sống vật chất một đời, chỉ có ba y, một bát. Toàn bộ tài sản của Ngài chỉ có bấy nhiêu đó.
Ba y, một bình bát, ăn cơm thì đi khất thực. Mỗi ngày chỉ ăn một bữa, ngủ một đêm dưới một gốc cây, buổi tối nghỉ ngơi, ngồi thiền dưới gốc cây. Ngài có đạo tràng, khắp nơi đều là đạo tràng. Ngài không hề kiến lập một phòng ốc nào, không có. Đạo tràng ở đâu? Ngoài trời, ở trong rừng, dưới gốc cây, bên hồ nước. Đến chỗ nào Ngài ngồi xuống, học sinh vây xung quanh. Ngài giảng kinh thuyết pháp cho đại chúng. Đó là dạy học, vui không gì bằng.
Không ở một chỗ nhất định, mỗi ngày đều ở một nơi khác nhau, giống như dân tộc du mục vậy. Chúng ta dùng tâm cảm nhận một chút xem, thân thể của những vị này gọi là thân Kim Cương bất hoại. Vì sao vậy? Vì ngủ nghỉ ở ngoài trời, họ chịu đựng được. Bão táp mưa sa nắng cháy, họ chịu đựng được. Họ không bị bệnh. Chúng ta ngày nay có thể sống cuộc sống như vậy chăng? Chắc chắn không được.
Chúng ta ngồi dưới gốc cây một đêm thôi, thì ngày hôm sau nằm trong phòng bệnh rồi. Điều này, nói lên chúng ta còn kém họ rất xa. Chúng ta muốn theo họ, nghĩ đến điều kiện của bản thân mình không đủ, thì chẳng có cách nào.
Chúng ta ăn ngày 3 bữa chưa đủ còn phải ăn thêm điểm tâm. Các Ngài ăn một bữa, hơn nữa họ ăn rất ít. Cách sống đó, chúng ta có thể chịu đựng được không? Các Ngài làm cho chúng ta thấy đó. Đức Phật dạy chúng ta buông bỏ, buông bỏ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Ngài thật sự buông bỏ. Ngài không buồn rầu, không vướng mắc; ngoài cái thân này ra thì chẳng có gì hết, trí tuệ sung mãn, thân tâm an trú trong định.
Thiền định này không phải thiền định khi ngồi mà là đi, đứng, nằm, ngồi, đều ở trong định, nghĩa là không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước. Đó là thiền định. Vì thế, sự thiền định này rất có lợi, giảng kinh trong thiền định, thuyết pháp trong thiền định, sinh hoạt trong thiền định.
Ngày nay, chúng ta có một quan niệm sai lầm, cho rằng thiền định là ngồi, phải ngồi ở đó mới là thiền định, không ngồi thì không phải là thiền định. Thiền định không phải như vậy. Thiền định thật sự, thì đi, đứng, nằm, ngồi cũng thiền định, không có một vọng niệm nào hết. Nếu quý vị không hỏi, thì Ngài không có ý niệm nào hết. Quý vị hỏi thì tùy theo câu hỏi mà trả lời, khởi lên tác dụng. Khi không hỏi, thì Ngài vô tri. Bát nhã vô tri. Quý vị hỏi Ngài, thì vô sở bất tri. Trong kinh Bát Nhã nói: “Bát nhã vô tri, vô sở bất tri”. Vô tri là định. Chắc chắn không có phân biệt, không khởi tâm, không động niệm. Đó là Phật pháp.
Chúng ta không có Bát nhã trí tuệ, niệm niệm sinh phiền não. Vì sao vậy? Là vì chúng ta có tri. Quý vị có tri, nghĩa là quý vị có phân biệt, quý vị có chấp trước, quý vị có vọng tưởng. Có tri, thì quý vị hữu sở bất tri. Những thứ quý vị chưa học, thì quý vị hoàn toàn không biết. Vô tri, thì vô sở bất tri. Những thứ chưa học qua cũng biết được, không có cái gì là chẳng biết. Vì sao vậy? Vì tất cả pháp đều từ tự tính biến hiện ra. Quý vị thấy tính rồi, thì làm gì có chuyện không biết. Tất cả pháp không rời tự tính.
Vì sao chúng ta có nhiều vấn đề như thế? Là vì chúng ta mê, làm mất tự tính. Chúng ta thưa hỏi vấn đề, đức Phật nương tự tính trả lời, chắc chắn không có sai lầm. Ngôn từ thiện xảo, chắc chắn quý vị nghe hiểu. Đó là điều trước đây chúng ta học qua. Cứu cánh phương tiện, toàn là Tính đức, chúng ta học điều gì cũng cần phải biết. Do vậy, đức Phật Thích Ca Mâu Ni, địa vị của Ngài là gì? Ngài không phải là tôn giáo, cũng không phải là thần, cũng chẳng phải là tiên, Ngài là con người. Danh từ Phật là danh xưng của học vị. Trung Quốc thời xưa, danh xưng học vị có ba cấp, cao nhất là thánh nhân, thứ hai là hiền nhân, thứ ba là quân tử. Ở Trung Quốc thời xưa người có học, là có cách xưng hô không đồng đẳng cấp.
Ở Ấn Độ cũng như vậy, học vị cao nhất gọi là Phật. ý nghĩa của chữ Phật, dịch sang tiếng Trung Quốc gọi là Giác Giả, nghĩa là bậc giác ngộ. Người Trung Quốc, thì gọi là bậc Thánh nhân. Học vị thứ hai gọi là Bồ tát, Huyền Trang Đại sư dịch từ Bồ tát thành Giác Hữu Tình. Tình chính là A Lại Da. A Lại Da là gốc của tình. Chưa đoạn gốc, cho nên vẫn còn hữu tình, căn chưa đoạn nhưng là bậc giác ngộ. Giác ngộ nên Ngài có thể khống chế tình cảm. Đó là học vị thứ hai, Bồ tát. Học vị thứ ba là A La Hán. A La Hán gọi là bậc vô học. Nếu từ chữ mà dịch nghĩa là vô học, họ tốt nghiệp rồi, họ tốt nghiệp cấp học nào? Họ tốt nghiệp tiểu học, không phải là đại học. Bồ tát là cấp đại học, A La Hán là cấp tiểu học. Tốt nghiệp tiểu học, ở trong Tiểu thừa gọi là Vô học.
Những môn học của Tiểu thừa họ đều đã học xong, gọi là Chính giác. Vì sao gọi là Chính giác? Vì họ không chấp trước. Đối với pháp của thế gian và xuất thế gian, họ không chấp trước. Không chấp trước, thì luân hồi lục đạo không còn nữa.
Lục đạo luân hồi từ đâu mà có? Từ chấp trước mà có. Có chấp trước là có lục đạo luân hồi. Không chấp trước, thì lục đạo luân hồi không còn nữa, cho nên nó là giả chứ không phải là thật.
Trong kinh Kim Cương nói, phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng, quý vị không nên chấp nó là thật. Chấp nó là thật, thì quý vị sẽ bị thiệt thòi đấy. Quý vị ở trong mê, thì không thể ra được. Do đó, Phật, Bồ tát, A La Hán, là danh xưng cho 3 học vị, giống như trong đại học ngày nay. Tiến sĩ, thạc sĩ, học sĩ, là danh xưng của học vị, chúng ta cần nên biết.
Nếu quý vị xem Phật, Bồ tát là thần tiên, thì quý vị hoàn toàn sai lầm. Đó gọi là mê tín. Đối với Phật giáo, thật sự không thông được. Nhưng người xem Phật, Bồ tát, A La Hán là thần tiên thì rất nhiều, đó là gì vậy? Phật giáo biến thành tôn giáo rồi. Nó không phải là tôn giáo, mà biến thành tôn giáo, những người Phật tử đời sau như chúng ta, có lỗi với đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Quý vị thật sự hiểu được đức Phật Thích Ca Mâu Ni, suốt đời Ngài làm công việc gì? Dùng cách nói ngày nay, là giáo dục xã hội đa nguyên văn hóa. Người thời nay xưng là nhà giáo dục xã hội đa nguyên văn hóa. Người thời nay xưng hô như vậy đó. Ngài có địa vị gì? Ngài làm công việc nghĩa vụ đối với sự giáo dục ở xã hội đa nguyên văn hoá này. Ngài là một giáo viên, một giáo viên rất giỏi. Ngài không nhận học phí. Ngài làm công quả.
Khổng lão phu tử không phải là làm công quả. Khổng lão phu tử thu học phí. Ngài không thu nhiều, một ít thôi, nhưng vẫn thu. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni không thu, không nhận một đồng nào. Với Ngài đó là nghĩa vụ. Chúng ta học Phật, nhất định phải nhận biết thầy giáo. Nếu không nhận biết, chúng ta học tập sẽ có khúc mắc. Điều này, khi tôi mới học Phật, Chương Gia Đại sư dạy tôi.
Vào thời đó, khi tôi mới tiếp xúc, Phương Đông Mỹ tiên sinh giới thiệu đó là học thuật. Thầy Phương cũng rất giỏi, cũng không xem đức Phật Thích Ca Mâu Ni là thần tiên. Thầy Phương giới thiệu với tôi rằng, đức Phật Thích Ca Mâu Ni là nhà triết học vĩ đại nhất trên thế giới này. Thầy đã giới thiệu với tôi như thế. Thầy nói triết học trong kinh Phật, là cao siêu nhất trong tất cả các triết học trên toàn thế giới. Học Phật là sự hưởng thụ cao nhất của đời người. Và tôi đã vào với đạo Phật như vậy.
Sau này, có duyên gặp được Chương Gia Đại sư, câu hỏi thứ nhất tôi đưa ra khi tôi gặp Ngài; tôi thỉnh giáo với Ngài: Con biết Phật pháp thù thắng, Phật pháp là đại học vấn, có cách nào khiến chúng con có thể mau chóng khế nhập? Tôi đã đưa ra vấn đề như thế để thưa hỏi. Lần đầu tiên, khi gặp vị xuất gia, trước đó, tôi không qua lại với người xuất gia. Lần đầu tiên gặp mặt, tôi đưa ra vấn đề này để thỉnh giáo. Tôi thưa hỏi ở phòng khách của Ngài. Khi đó, hình như có 5 người ngồi trong phòng khách.
Ngài nhìn tôi, tôi cũng nhìn Ngài. Chúng tôi nhìn nhau hơn nửa giờ đồng hồ. Bầu không khí trong phòng khách nhỏ này rất nghiêm túc, nhưng cũng rất nhu hòa. Sau nửa giờ đồng hồ. Ngài mới nói một tiếng: Có! Tôi chờ đợi nửa giờ đồng hồ, chờ được một tiếng, “có”. Tinh thần phấn chấn lên. Có! Tiếp tục chú ý nghe, nhưng Ngài lại chẳng nói gì. Đại khái, 6, 7 phút sau đó, Ngài nói với tôi 6 từ. Ngài nói chuyện rất chậm, nói từng từ, từng từ: “Nhìn được thấu, buông xuống được”.
Tôi nói chuyện đây là rất nhanh đấy. Ngài nói chậm hơn tôi nhiều. Nói từng từ, từng từ, nói 6 từ. Tôi nghe rồi tưởng hiểu mà không hiểu, nhưng hình như hiểu được ý của Ngài. Tốc độ của chúng tôi nhanh, còn trẻ mà.
Kế đến, thưa hỏi Ngài vấn đề thứ hai, bắt đầu hạ thủ công phu từ đâu? Đại sư nói với tôi rằng, hạ thủ công phu từ bố thí. Ngày đầu tiên, ở chỗ Ngài 2 tiếng đồng hồ, hầu như chỉ ở trong sự im lặng, nhưng mà từ trường ở đó rất tốt.
Sau này Ngài hẹn, mỗi tuần vào ngày chủ nhật dành cho tôi 2 giờ đồng hồ, và giới thiệu cho tôi 2 cuốn sách, kêu tôi tự tìm đọc. Đó là cuốn Thích Ca Phổ, và Thích Ca Phương Chí. Ông muốn học Phật, thì đầu tiên phải nhận biết đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Sau khi chúng tôi đọc xong, rồi mới biết được, đức Phật Thích Ca Mâu Ni thật sự suốt đời làm công việc giáo dục, suốt đời dạy học, thật sự không liên quan gì đến tôn giáo hết.
Nhưng mà Phật giáo trong xã hội ngày nay, hình thái thứ hai xuất hiện đó chính là tôn giáo. Nó vốn không phải là tôn giáo, mà biến thành tôn giáo. Những đệ tử đời sau như chúng ta có lỗi với thầy giáo, làm sao lại biến nó thành tôn giáo vậy? Phật giáo biến thành tôn giáo, lịch sử không dài. Phật giáo khi truyền vào Trung Quốc không phải là tôn giáo, nhưng mà trong Phật giáo giảng về tôn giáo. Tôn giáo lúc đó và tôn giáo ngày nay, hoàn toàn khác, hoàn toàn không tương can.
Đạo Phật giảng tôn giáo là giảng về tông môn giáo hạ. Khi Ngài giảng dạy, Ngài dùng hai phương pháp hoàn toàn khác nhau. Thiền Tông thật sự là tiếp dẫn bậc thượng thượng căn, trung, hạ căn không có phần. Đây gọi là tông môn.
Tông môn là gì? Thật sự là tham thiền. Dùng phương pháp này, hoàn toàn dùng thiền để dụng công. Sau khi khai ngộ mới tiếp xúc với kinh điển. Kinh điển nghĩa là giáo. Chưa khai ngộ, thì không xem kinh điển. Đây là một phương pháp rất đặc biệt. Không có căn tính này, nghĩa là bậc căn tính thượng, trung, hạ, thì từ giáo hạ, nhập môn từ kinh điển.
Kinh điển có sâu có cạn, cho nên Tổ sư phân giáo, đem tất cả kinh điển mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói trong 49 năm chỉnh lý lại, phân biệt rõ ràng ý nghĩa sâu cạn ở trong đó. Loại nào dạy sơ học, loại nào dạy bậc trung học, loại nào là học tập sau cùng. Giống như sắp đặt chương trình học, chương trình của tiểu học, chương trình của trung học, chương trình của đại học, chương trình của nghiên cứu sinh. Việc này do các vị Tổ sư ở Trung Quốc làm.
Tông Thiên Thai, Tông Hiền Thủ, họ đã phân ra rất rõ ràng. Khi đức Phật còn tại thế, Ngài không phân ra như vậy, bởi vì đức Phật giảng dạy, không giống như trường học chính quy ngày nay, phân ra trình độ đẳng cấp, không phải như vậy. Mọi người từ khắp nơi đến, trình độ không đều nhau, cho nên khi Ngài giảng dạy, ai hỏi điều gì thì Ngài giảng điều đó. Hỏi sâu, thì Ngài giảng sâu. Hỏi cạn, thì Ngài giảng cạn. Hầu như ngày nào cũng có tình trạng như vậy. Vào thời đó, quốc gia không đồng, quần tộc không đồng, tôn giáo tín ngưỡng không đồng, người đến thỉnh giáo với Ngài, học tập với Ngài đều có hết, cho nên cần phải hiểu rõ tình huống.
Vào thời Tùy Đường, Trung Quốc kiến lập chế độ tòng lâm. Đó chính là kiến lập trường học chính quy. Đây là đạo tràng trong nhà Phật. Tòng lâm giống như đại học ngày nay vậy, tổ chức trong đó cũng rất giống như trường học ngày nay. Chủ tịch của tòng lâm cũng gọi là Phương trượng, cũng gọi là trụ trì. Đó là Hiệu trưởng. Dưới Ngài có 3 vị chấp sự. Thứ nhất là Thủ tọa xem sóc việc dạy học. Hòa thượng Thủ tọa tương đương với Giáo vụ trưởng của trường học. Duy na tương đương với Huấn đạo trưởng, lo việc huấn đạo. Giám viện tương đương với Tổng vụ trưởng. Danh xưng có khác nhau, nhưng hoàn toàn tương đồng với việc phân công chức trách của đại học ngày nay. Vì thế, đã nâng sự giáo dục của đức Phật trở thành chính quy. Đó là đặc sắc của Phật giáo Trung Quốc.
Phương Đông Mỹ tiên sinh rất chú trọng sự việc này, muốn phục hưng Phật giáo, nhất định phải phục hồi vai trò tòng lâm như ngày xưa, cũng có nghĩa là phải kiến lập đại học Phật giáo, Phật giáo mới có thể phục hưng được. Phật giáo là giáo dục, điều này nhất định phải nhận biết rõ ràng. Nội dung giảng dạy bao gồm rất lớn, đúng là biến pháp giới, hư không giới, tần số không gian bất đồng.
Nhưng đều nói đến, giảng về mười pháp giới, giảng về vô lượng vô biên pháp giới, giảng quá khứ, giảng vị lai. Tính, tướng, lý, sự, nhân, quả trong hư không pháp giới, đều giảng đến hết, bao gồm hết, đúng là đại học vấn. Vì thế, sau khi truyền đến Trung Quốc, số kinh điển này không ngừng truyền vào Trung Quốc. Các vị cao tăng ở Trung Quốc, và những vị từ Ấn Độ đến Trung Quốc truyền giáo, được đế vương của Trung Quốc, và giới học thuật của Trung Quốc chào đón!
Quốc gia kiến lập nơi phiên dịch. Thời đó, dịch kinh, quốc gia mang tiền đến ủng hộ, đế vương dẫn đầu hộ trì, thích thú quên cả mệt mỏi. Từ triều đại Hán cho đến triều đại Tống, hơn 800 năm, phiên dịch ra số Đại Tạng Kinh ngày nay.
Phật giáo biến thành tôn giáo, tôi nghĩ khoảng sau thời Càn Long. Thời đại Càn Long vẫn là học thuật. Mỗi ngôi chùa, am, đường, đều là trường học. Dùng cách nói ngày nay gọi là gì? Trường chuyên, thông thường một đạo tràng là học một bộ kinh hoặc là một bộ luận. Quý vị muốn học kinh này, thì quý vị có thể đến chỗ họ để báo danh. Quý vị đến tham dự, quý vị đến học với họ. Thật sự biến chất, phế trừ việc giảng dạy, tôi nghĩ là Từ Hy Thái hậu. Trên tay bà, Phật giáo đã thật sự biến thành tôn giáo. Thời gian không dài, cùng lắm là hơn 200 năm, chưa đến 300 năm, Phật giáo biến thành tôn giáo. Bởi vì Từ Hy Thái hậu, bà ấy tin tôn giáo, bà ấy tin quỷ thần.
Tiền Thanh, chúng ta xem lịch sử triều đại nhà Thanh, từ khai quốc đến Hàm Phong. Hàm Phong là chồng của Từ Hy, trong triều đình, nghĩa là trong hoàng cung, thường mời học giả của ba nhà Nho - Thích - Đạo, đến giảng dạy trong cung đình. Hoàng đế dẫn theo quý phi, văn võ đại thần, ngày nào cũng học, học rất chuyên cần. Những bài giảng đó đều có tài liệu giảng dạy. Những tài liệu này đến nay vẫn còn bảo tồn trong Tứ Khố Toàn Thư. Đôi khi tôi cũng thích mở ra xem, xem trong cung đình họ giảng những gì. Tứ Thư giảng thế nào? Ngũ Kinh giảng thế nào? Trong Tứ Khố Toàn Thư vẫn còn bảo tồn. Chế độ này bị Từ Hy phế trừ. Sau khi Hàm Phong chết, con trai kế thừa vương vị. Con trai là Đồng Trị, nghĩa là con trai của Từ Hy Thái hậu.
Tuổi còn nhỏ, Đồng Trị không hiểu việc, cho nên trên thực tế thì Từ Hy nắm quyền. Từ Hy phế trừ chế độ này. Sau khi phế trừ, bà ta cũng có những thứ bà ấy thích. Bà ấy thích xin quẻ, cho nên trong cung đình, những chuyện đại sự không thỉnh giáo với các chuyên gia, mà thỉnh giáo với các vị thần tiên trong bàn quẻ. Cuối cùng khiến mất nước.
Sự việc này, Chương Gia Đại sư nói cho tôi biết, bởi vì Chương Gia nhiều đời, đều là quốc sư của đế vương triều đại nhà Thanh, cho nên Ngài nói cho tôi biết về vấn đề xin quẻ. Từ Hy Thái hậu tin điều này. Chương Gia Đại sư nói với tôi, xin quẻ trong đó có Thần tiên, Bồ tát giáng lâm. Ngài nói đó đều là giả chứ chẳng phải là thật. Những linh quỷ này mạo xưng chư Phật, Bồ tát, mạo xưng thần tiên, nhưng mà cũng là làm việc tốt. Đối với những việc nhỏ, thì họ thật sự có thần thông. Họ nói cũng rất linh, vì không linh thì chẳng có ai tin.
Đối với những việc lớn, thì họ nói bậy, quý vị bị mắc lừa, quý vị cũng không thể tìm được họ, cho nên Ngài nói với tôi, việc xin quẻ là có thật. Nếu như quý vị mời họ đến để nói chuyện cho vui, thì không có sao hết, nhưng quý vị chớ nên bàn luận việc chính sự với họ. Nói về việc chính sự, đôi khi vì giữ thể diện, không biết mà cho là biết, thì họ sẽ nói bậy. Do vậy, khi quý vị bị mắc lừa, bị thiệt thòi, thì quý vị không tìm thấy họ đâu. Vì vậy, đây là những thường thức mà chúng ta cần nên biết. Đôi khi những linh mưu này, ngày nay rất nhiều, nhiều hơn ngày xưa rất nhiều. Truyền những thông tin này, chúng ta nhận được thông tin này, phải dùng trí tuệ để phán đoán sự chính xác của nó. Họ bảo chúng ta dùng phương pháp nào để xử lý, điều này không được tùy tiện nhận lời. Quý vị phải dùng phương pháp trong kinh Phật nói để xử lý, thì không có vấn đề gì, chắc chắn quý vị không phạm lỗi lầm.
Ví dụ như những linh mưu này, tôi biết, họ đến nói với tôi, bây giờ tai nạn rất nhiều, linh mưu tìm đến Bồ tát Quán Âm. Tôi nói, Bồ tát Quán Âm nói thế nào? Họ đi hỏi Bồ tát Quán Âm, tai nạn có thật hay không? Họ nói, Bồ tát Quán Âm nói là có thật. Có cách nào hóa giải không? Ngài nói, có. Phương pháp gì? Giảng kinh, thuyết pháp. Tôi nói, nếu như vậy thì được, vì điều này tương ưng với kinh Phật, có thể tiếp nhận. Vì sao vậy? Vì sao giảng kinh, thuyết pháp mà có thể hóa giải được tai nạn? Tai nạn là do con người hiện nay sống trên quả địa cầu này, có ý niệm bất thiện, có tâm hành bất thiện, chiêu cảm mà có. Đây là nguyên nhân thật sự của tai nạn.
Giảng kinh, thuyết pháp có thể giúp cho con người khai ngộ, giác ngộ. Sau khi giác ngộ rồi, có thể buông bỏ những quan niệm sai lầm, buông bỏ những hành vi sai lầm. Y theo sự chỉ dạy truyền thống của tiền nhân: Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tứ Duy, Bát Đức. Tư tưởng của chúng ta không đi ngược với truyền thống này. Hành vi của chúng ta không trái ngược, thì tai nạn của thế gian này tự nhiên được hóa giải. Có lý đấy!
Nếu như nói dùng những phương pháp khác, thì không thể tin tưởng được. Cầu nguyện cũng là một phương pháp, cấp thời thì được, bởi vì tâm cầu nguyện đó rất kiền thành. Buông bỏ hết tạp niệm để cầu nguyện, thật sự có thể làm giảm bớt tai nạn xuống, nhưng không thể kéo dài được lâu. Đó là trị ngọn mà không trị gốc. Trị gốc là giáo dục.
Vì thế, cầu nguyện có tác dụng gì không? Có tác dụng. Thật sự có tác dụng. Nhưng nếu quý vị muốn vĩnh viễn duy trì, thì nhất định phải học tập kinh giáo, luân lý, đạo đức, nhân quả, cổ kim trong ngoài đều không thể tách rời. Đây là Tính đức, từ tự tính lưu xuất ra. Hiểu được đạo lý này, hiểu được nguyên lý này, thì quý vị mới nắm bắt được.
Tai nạn của bản thân là bệnh khổ! Đó là tai nạn của bản thân chúng ta. Tai nạn của hoàn cảnh bên ngoài là cộng nghiệp. Chúng ta hiểu được những nguyên tắc nguyên lý này, thì tâm của quý vị sẽ định. Khi tâm định, thì quý vị sẽ không bị hoảng, cũng không bị loạn.
Tai nạn tuy hiện tiền, nhưng chỉ cần quý vị có định, thì quý vị có thể xử lý một cách khéo léo. Chỉ sợ quý vị không biết khi tai nạn đến, tâm quý vị hoảng loạn, thì phiền phức lắm. Như thế thì cho dù là chư Phật, Bồ tát cũng không thể cứu được quý vị. Chỉ cần tâm quý vị định, thần chí rõ ràng không hề loạn, thì có thể giải quyết được vấn đề. Định sinh tuệ. Có trí tuệ hiện tiền, thì vấn đề tự nhiên được hóa giải.
Giải quyết một vấn đề có rất nhiều phương pháp, chứ chẳng phải chỉ có một phương pháp. Vì thế, nói nhân thời, nhân người, nhân địa, không giống nhau, thiên biến vạn hóa, giống như thiện xảo phương tiện mà trước đây nói vậy.
Bậc cổ nhân giảng kinh Vô Lượng Thọ là cứu cánh phương tiện, chúng ta phải thật sự hiểu rõ câu này. Bất cứ vấn đề gì cũng có thể ở trong kinh Vô Lượng Thọ mà tìm thấy đáp án. Đó là sự thật không sai chút nào. Vì vậy, lần này chúng ta lại tìm về bộ kinh này, ôn tập lại một lần nữa. Dụng ý chính, là ứng phó với những vấn đề tai nạn hiện nay. Chúng ta ôn tập lại bộ kinh này một lần nữa.
Mới học Phật, tôi tin có rất nhiều người đều gặp phải sự việc này. Người khác thỉnh giáo với quý vị, đức Phật giảng điều gì vậy? Tôi từng hỏi qua một vị đạo hữu, nhiều năm về trước, đại khái khoảng vài ba chục năm về trước rồi.
Khi đó, chúng tôi ở Thư viện Cảnh Mỹ, Đài Bắc. Một lần khi Tết đến, các bạn học cũ đến thư viện để chúc tết. Một vị giáo thọ ở Trường Đại học Phụ Nhân nói với tôi rằng, học kỳ này, nghĩa là học kỳ kế tiếp, ở trong trường lợi dụng hoạt động ngoại khóa, thầy giảng cho học trò một bài Phổ Hiền Bồ tát Hạnh Nguyện Phẩm.
Ở Đài Loan, sinh viên học Phật rất thịnh hành. Tôi nói, hay lắm. Đột nhiên, tôi nghĩ ra một vấn đề, tôi nói: Tôi có một vấn đề muốn hỏi thầy, mong thầy trả lời. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế, Ngài giảng kinh thuyết pháp 49, Ngài đã giảng gì? Xin thầy dùng một câu trả lời cho tôi, không được nói nhiều, chỉ một câu thôi. 49 năm, Ngài giảng gì? Thầy ấy suy nghĩ 5, 6 phút, không có cách nào trả lời được. Thầy ấy quay lại hỏi tôi. Tôi nói trong kinh Bát Nhã có một câu: “Chư pháp thật tướng”. Tôi nói dùng câu này có được hay không? Thầy ấy suy nghĩ một chút, nói: Được, Được. Chư pháp thật tướng, nếu dùng cách nói của ngày nay, nghĩa là chân tướng của vũ trụ nhân sinh.
Người xưa dùng văn tự đơn giản: chư pháp thật tướng. Đó là gì? Đối với phần tử tri thức có thể nói như vậy, họ hiểu được, đối với Phật pháp họ đã nhập môn rồi, những thứ này không phải là mê tín. Nếu đối với hàng sơ học, họ chưa tiếp xúc qua Phật pháp, dạng này thường gặp, rốt cuộc đức Phật đã nói gì? Ngài phải giải thích tỉ mỉ hơn một chút cho họ nghe.
Trong kinh, đức Phật thật sự là từ bi. Ngài dạy chúng ta làm thế nào để đối phó với những người có nghi vấn như vậy. Ở trong kinh có “lục sự minh kinh ý”, nghĩa là có 6 việc, ở chỗ pháp số trong Tam tạng có. Nội dung này đều do đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói.
Kinh vân: “Phật hữu tam đạt chi trí” (Kinh nói: Phật có trí thông đạt 3 đời), nghĩa là quá khứ, hiện tại, vị lai. “Mị bất thông yên” (Chẳng có điều gì là Ngài không thông). Có thật không? Đúng vậy. Quý vị xem kiến tính mà. Tất cả pháp đều từ tự tính sở sinh sở hiện. Quý vị kiến tính rồi, thì có lý nào lại không biết. Nếu quý vị còn có điều không biết, nghĩa là quý vị chưa kiến tính. Lục Tổ Huệ Năng Đại sư kiến tính. Ngài chưa từng học kinh giáo, chưa từng học qua pháp thế gian. Nhưng bất luận sự việc gì quý vị thỉnh giáo với Ngài, Ngài đều giảng giải cho quý vị một cách thông suốt. Vì vậy, nếu quý vị thật sự muốn trí tuệ hiện tiền, không điều gì không biết, không điều gì không thể làm, thì phải tin tưởng học Ngài. Trong pháp Đại thừa dạy minh tâm kiến tính. Ngài đã làm được, không hề giả dối. Người thế gian cho là không thể. Trong sự tưởng tượng của chúng ta, đương nhiên cũng không thể.
Khi chúng tôi cầu học ở Đài Trung, thầy Lý từng nói với chúng tôi, muốn hoằng pháp lợi sinh, nhất định phải thông pháp của thế gian và xuất thế gian. Quý vị có thể thông được không? Pháp thế gian không nói nhiều, chúng ta chỉ nói đến bậc cổ nhân vậy. Bậc cổ nhân viết ra một bộ Tứ Khố Toàn Thư, quý vị có thông đạt được không? Đại Tạng Kinh trong đạo Phật, quý vị thông đạt được không?
Đừng nói là nghiên cứu Tứ Khố Toàn Thư, hàng ngày quý vị đọc nó, mỗi ngày đọc 10 tiếng đồng hồ. Từ lúc ra đời là đã biết đọc, đọc cho đến khi quý vị 100 tuổi cũng chưa đọc hết, làm sao quý vị có thể thông đạt? Huống là tri thức của thế gian ngày càng đổi mới, quý vị không thể thông đạt được. Tam tạng 12 bộ kinh trong đạo Phật cũng như vậy. Quý vị không thông cũng không được. Quý vị không thông, thì không thể giảng dạy. Làm sao đây?
Thầy giáo dạy chúng ta một phương pháp đặc biệt thông đạt. Thầy đã dạy cho tôi 4 từ: Chí thành cảm thông. Thầy nói, chúng ta muốn thông, mà nương vào nghiên cứu học tập, thì chắc chắn không thể làm được. Thế thì sao? Cảm ứng, cảm thông. Dùng cái gì để cầu cảm ứng? Dùng tâm thành. Dùng tâm chân thành. Tâm chân thành đến chỗ cuối cùng, thì gọi là chí thành. Dùng phương pháp này, cảm ứng với chư Phật, Bồ tát, cảm ứng với tự tính.
Biểu hiện của thành, thứ nhất là Tính đức, thành tín, không hề có chút nghi hoặc nào. Thanh tịnh, tín tâm, thì có thể cảm thông. Thầy giáo dạy chúng tôi, lúc chúng tôi giảng kinh, đương nhiên là tham khảo những cuốn chú giải của bậc cổ nhân. Chú giải của bậc cổ nhân cũng rất sâu, xem đến chỗ không hiểu được, phải làm sao đây? Thầy giáo dạy cho chúng tôi một cách rất hay, xem đến chỗ không hiểu, thì đừng xem nữa, đi lạy Phật, lạy 3, 400 lạy, tự nhiên sẽ thông. Đó là việc khi chúng tôi còn làm học sinh học tập giảng kinh thường làm, rất linh.
Quý vị đừng nghĩ đến nó nữa, bởi quý vị càng nghĩ, nó càng không thông. Vì sao vậy? Vì quý vị suy nghĩ là dùng vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Cái đó không có cách nào giải thích ý nghĩa của kinh được, chỉ có cách buông bỏ tất cả vọng niệm, nhất tâm lạy Phật, ở trong đây định tuệ sẽ khởi tác dụng.
Phương pháp này không phải do thầy Lý phát minh ra, mà là do Tổ sư truyền lại. Ở trong Phật giáo đời đời kiếp kiến chư vị Tổ sư, đã truyền lại phương pháp này, rất hữu dụng. Vì vậy, tâm càng thanh tịnh, thì quý vị xem kinh càng hiểu rõ, càng có thể thấy được ý nghĩa của nó. Do đó, quý vị cần tâm thanh tịnh, cần tâm bình đẳng.
Giác, nghĩa là đại triệt đại ngộ, chúng ta chưa làm được, nhưng thanh tịnh, bình đẳng. Tuy chưa đạt được viên mãn, nhưng ta nỗ lực làm, càng thanh tịnh càng tốt, càng bình đẳng càng tốt, thanh tịnh, bình đẳng phải mỗi năm mỗi tiến bộ. Nhiễm ô cần buông bỏ, kiêu mạn cần buông bỏ. Sự chướng ngại lớn nhất cho việc bình đẳng là kiêu mạn. Tập khí kiêu mạn đôi khi chính bản thân mình còn không biết, nhưng mà người khác có thể cảm nhận được.
Thái độ kiêu mạn, ngôn ngữ kiêu mạn đều thành chướng ngại. Vì vậy, phải học cách khiêm hạ. Lạy Phật chính là học khiêm hạ. Chúng ta đối với Phật năm vóc gieo xuống đất, đối với mỗi chúng sinh cũng đều năm vóc gieo xuống đất, đoạn tận tập khí kiêu mạn của quý vị từ vô thỉ kiếp. Nếu quý vị không khiêm hạ, thì không thể đoạn được. Do đó, sự khiêm hạ đối với chính bản thân mình có rất nhiều lợi ích.
Dưới đây nói: “Phật kinh chúng đa, dĩ hư không vi lượng” (Kinh Phật rất nhiều, lấy hư không làm lượng), nhiều hơn Tứ Khố Toàn Thư rất nhiều. “Phật trí hoằng thâm, dĩ vô tạo vi nguyên” (Trí Phật rộng sâu, lấy vô tác làm nguồn). Câu này rất quan trọng. Trí tuệ của Phật, nghĩa là trí tuệ của tự tính. Vì sao trí tuệ tự tính của Phật có thể hiển lộ? Vì sao trí tuệ tự tính của chúng ta không hiển lộ ra? Quý vị xem chính là ở câu này: “Lấy vô tác làm nguồn”. Chúng ta có tạo tác, có tâm tạo tác, thì không thanh tịnh. Đức Phật không có tạo tác.
Nói cho các vị biết, đức Phật miên viễn không khởi tâm, không động niệm. Khởi tâm, động niệm đã không có, thì lấy đâu ra phân biệt, chấp trước? Vì thế, tâm Phật là gì? Vĩnh viễn là Thanh tịnh, Bình đẳng, Giác.
Khi không khởi tác dụng là Thanh tịnh, Bình đẳng, Giác, khi khởi tác dụng cũng vẫn là Thanh tịnh, Bình đẳng, Giác. Không hề có một chút tơ hào nhiễm ô nào, tuyệt đối không có ý niệm tự tư, tự lợi, tuyệt đối không có ý niệm thị phi nhân ngã. Điều này, chúng ta cần nên học. Chúng ta nên hạ thủ công phu ở chỗ này.
Đầu tiên, chúng ta nên học chư Phật, Bồ tát, khẳng định tất cả chúng sinh vốn là Phật, thì tâm tôn kính của chúng ta đối với mọi người sẽ sinh khởi. Họ là Phật, nhưng vì sao họ lại ra nông nỗi này? Vì họ mê, bây giờ họ là một vị Phật mê hoặc điên đảo. Mê hoặc điên đảo là giả, là pháp sinh diệt, sẽ có ngày họ giác ngộ, họ hiểu rõ. Lúc đó, tất cả tập khí phiền não đều buông bỏ hết, thì bản lai diện mục của họ sẽ hiện tiền. Bản lai diện mục là một vị Phật.
Nếu như chúng ta không có thời gian dài như vậy, huân tu Phật pháp, thì chúng ta cũng mê hoặc. Cổ nhân hay nói, “nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu”. Trong đây có đạo lý lớn. Bậc trung, hạ căn cơ như chúng ta đây, thì câu này có lợi ích lớn, cho nên mỗi ngày tôi nhất định phải đọc kinh. Vì sao vậy? Không có gì vui bằng, sự hưởng thụ thật sự.
Thầy Phương nói, học Phật là sự hưởng thụ cao nhất của đời người. Cảm nhận được từ đâu đây? Từ việc đọc kinh, cùng mọi người học tập với nhau, cùng học với nhau. Ngày xưa, mỗi ngày tôi học 4 giờ đồng hồ, bây giờ lớn tuổi rồi, tôi giảm đi một nửa, còn 2 giờ đồng hồ, trên thực tế không có mệt. Tôi thật sự học 2 giờ đồng hồ phải không?
Nói thiệt với quý vị, mỗi ngày chắc chắn là 8 giờ đồng hồ. Tiếp xúc với bất cứ ai, thân đang biểu hiện pháp, mở miệng nói ra đều là kinh giáo, cho nên tôi cảm nhận được đức Phật Thích Ca Mâu Ni, 49 năm, Ngài mở miệng ra là kinh, là giảng kinh, đối với một người như vậy, đối với đoàn thể cũng như vậy. Khi không nói pháp, nhất cử nhất động của Ngài đều là biểu hiện pháp. Thân thể đang nói, không nhất định là ngôn ngữ. Thân thể cũng nói được, thân khẩu ý tam nghiệp đều đang nói pháp, thì làm sao mà Ngài không vui được, làm sao mà Ngài mệt mỏi được.
Ngạn ngữ có câu: “Nhân phùng hỷ sự tinh thần sảng”. Việc này là chuyện vui. Bi ai thương tâm, thì sẽ mệt mỏi. Trong sự vui sướng, thì làm gì có mệt mỏi? Làm gì có lý đó! Vì thế, quý vị biết được, câu không mệt, không ghét là sự thật, không phải giả đâu. Mệt mỏi là giả.
Trong Luận Ngữ, trong đó có một câu: “Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc duyệt hồ” (Có bạn từ phương xa đến, cũng chẳng vui sao!). Bằng là gì? Là người chí đồng đạo hợp, từ nơi xa xôi đến, quý vị nghĩ xem có vui không? Làm sao mà họ có mệt mỏi, nói chuyện 3 ngày 3 đêm cũng không thấy mệt mỏi. Đó là sự thật, không phải giả đâu. Nếu không phải là chí đồng đạo hợp, cái gọi là nói chuyện không hợp, thì không nói được, thì sẽ mệt mỏi. Vì thế, phải học chư Phật, Bồ tát, khẳng định tất cả chúng sinh vốn là Phật.
Cổ nhân cho chúng ta biết, “Nhân chi sơ, tính bản thiện” (Người mới sinh, tính vốn thiện). Chúng ta dùng thái độ này nhìn người khác, thì cả vũ trụ này đều là người thiện, không có người ác. Người ác là gì? Là họ gặp phải ác duyên, nên học theo thói hư. Đó là tạm thời thôi, họ sẽ quay đầu, bởi vì tự tính của họ vốn là thiện. Vì vậy, đối với những người làm ác, quý vị không nên trách họ. Quý vị thấy họ làm ác, cũng gật đầu mỉm cười, làm cũng hay đấy, làm việc xấu.
Làm việc xấu là gì? Họ có báo. Họ có ác báo. Ở trong ác báo, ở trong sự thọ báo, họ sẽ tỉnh ngộ. Nghĩa là tâm lành hiển hiện, họ sẽ tỉnh ngộ. Trình độ tỉnh ngộ sâu, thì vĩnh viễn họ không làm việc xấu nữa. Giác ngộ tạm thời cũng là khó rồi. Cái gọi là tâm lành hiển hiện, thì nghiệp của người này được tiêu rất nhiều. Nếu có cơ hội gặp được ác duyên nữa, thì họ lại tạo nghiệp. Đó là vì họ không ngộ thấu triệt, nên họ phục hồi tạo nghiệp.
Nói tóm lại, tạo nghiệp thọ báo, thọ báo lại tạo nghiệp. Ở trong đây số lần nhiều rồi, họ cảm thấy rất phiền, họ cảm thấy đúng thật là khổ, thì có thể triệt để quay đầu. Do đó, giáo dục quan trọng hơn bất cứ thứ gì, không thể bỏ qua. Phải khẳng định tất cả chúng sinh hữu tình đều có Phật tính. Phật tính nghĩa là giác, đặc biệt nhấn mạnh sự giác này.
Chúng sinh vô tình đều có pháp tính. Pháp tính và Phật tính là một tính. Chúng ta nói vô tình là thực vật, khoáng vật, nhưng trong tính nhất định có kiến, văn, giác, tri. Ngày nay, chúng ta chứng thực, thực vật có kiến, văn, giác, tri, khoáng vật có kiến, văn, giác, tri. Kiến, văn, giác, tri là đức năng trong tự tính, bất sinh bất diệt. Mê rồi, thì kiến, văn, giác, tri biến thành Thọ, Tưởng, Hành, Thức, biến thành A Lại Da. A Lại Da có Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Sau khi giác ngộ, Thọ, Tưởng, Hành, Thức biến thành kiến, văn, giác, tri. Thọ, Tưởng, Hành, Thức tạo nghiệp. Kiến, văn, giác, tri không tạo nghiệp. Không giống nhau!
Khẳng định tất cả pháp, pháp ở đây chính là trong kinh đức Phật nói, hiện tượng chúng duyên hòa hợp mà sinh khởi, hiện tượng vật chất, hiện tượng tinh thần, hiện tượng tự nhiên. Ở trong đây mê rồi, nghĩa là ở trong lục đạo, thì chắc chắn có Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Tiến sĩ Giang Bổn Thắng người Nhật, làm thực nghiệm nước. Nước có Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Tôi nghe nói ở Đài Loan còn có một số quý vị nhỏ làm thực nghiệm, dùng trái cây, dùng thực vật, dùng cơm, dùng bánh bao để làm thực nghiệm, cũng phát hiện ra trong sự thực nghiệm này, đã hiển thị rất rõ ràng. Trong chúng có Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Nó hiểu được ý của con người, nó biết được quý vị thích nó, biết được quý vị ghét nó, nó có cảm thọ.
Vì thế, chúng ta khẳng định, bản năng của tự tính là kiến, văn, giác, tri. Đức hạnh của tự tính là nhân từ, bác ái. Nhân từ, bác ái là Tính đức, trong tự tính vốn sẵn có, cho nên tôn giáo nào cũng nói về ái. Ái ở đây không phải là tình cảm, mà là trí tuệ. Ái của tình cảm là giả, chẳng phải chân, bởi vì nó sẽ thay đổi. Ái của trí tuệ là vĩnh hằng bất biến.
Thật sự hiểu rõ ràng minh bạch rồi, chắc chắn quý vị sẽ sinh tâm cảm ơn tất cả chúng sinh. Bản lai hòa mục (xưa nay hòa thuận), đó là sự thật, không phải giả đâu. Vũ trụ là một bầu hòa khí, nếu quý vị không hòa, quý vị sẽ bị bệnh, là quý vị có vấn đề rồi. Cơ thể của chúng ta, thân tâm là một bầu hòa khí, thì con người mạnh khỏe sống lâu. Nếu như không hòa, thì sẽ có vấn đề. Hòa duyệt, quý vị xem, người đó hoan hỷ, tướng hỷ duyệt. Quý vị nhìn biểu hiện trên khuôn mặt của người đó, là một người ưu tư phiền não, chắc chắn họ bị bệnh. Quý vị thấy người kia vui mừng hớn hở, rất hoạt bát, giống như một đứa trẻ vậy, thì làm gì họ bị bệnh, gọi là thể chất thuần dương.
Làm thế nào để duy trì đến già mà không suy? Công phu. Sống đến 100 tuổi rồi mà vẫn như một đứa trẻ vậy, ngây thơ lãng mạn như thế, hoạt bát tự tại như thế, đây chính là lợi ích của Phật pháp, là lợi ích của văn hóa truyền thống. Quý vị thật sự học, thì thật sự được như vậy. Thân tâm khinh an, không có phiền não, không có ưu tư thì có già cũng không suy. Vấn đề phức tạp nào đến trước mặt, dùng trí tuệ giải quyết. Nên nhớ, không phải dùng tri thức, mà là dùng trí tuệ. Vì vậy, mãi mãi cảm ơn tất cả.
Người tốt với tôi, tôi cảm ơn họ, người không tốt với tôi tôi cũng vẫn cảm ơn họ. Vì sao vậy? Vì họ thành tựu cho tôi, nếu không có những cảnh giới này, thì tôi đến đâu để học tập? Cảm ơn tất cả động thực vật, cảm ơn sơn hà đại địa. Do đó, hàng ngày chúng ta lạy Phật. Lạy cuối cùng là lạy ai vậy? Lạy mười phương cõi vi trần thế giới. Đó là cảm ơn đại địa, mười phương cõi vi trần thế giới. Đó là vô lượng vô biên, toàn là tự tính biến hiện ra.
Nhất định phải biết bản lai hòa mục, cho nên tinh cầu trong bầu thái hư vận hành hòa mục. Nó không đụng chạm nhau. Nó tuần hoàn ở một quỹ đạo nhất định, không hề sai chạy một chút nào. Nhưng quý vị nên biết rằng, nếu như tâm con người loạn, suy nghĩ lung tung, thì tinh cầu có thể ra khỏi quỹ đạo.
Nếu như tinh cầu ở trong tình trạng như vậy, chúng ta giúp nó bằng cách nào đây? Phục hồi lại chính niệm. Chúng ta đẩy làn sóng này cho nó, sẽ có thể ảnh hưởng đến nó. Làn sóng thuần chính, làn sóng thuần tịnh, sẽ giúp nó, tu sửa lại quỹ đạo cho nó. Thứ này chẳng phải là huyền học đâu, trong Phật pháp thật sự có lý luận, có đạo lý nguyên tắc, hòa mục tương xử, bình đẳng đối đãi. Quan trọng nhất là nhân sự hoàn cảnh. Làm thế nào để sống tốt với người? Người ta không tốt với mình, mình có thể dùng hòa mục đối với họ, dùng tâm bình đẳng đối với họ, như thế mới có thể cải thiện được. Họ đối với mình không tốt, mình đối với họ càng không tốt, đối lập, thì quý vị vĩnh viễn là đối lập, sẽ sinh ra mâu thuẫn, sẽ sinh ra xung đột. Xung đột cao lên, thì là đấu tranh. Đấu tranh lên cao nữa, thì ngày nay là chiến tranh.
Chiến tranh ngày nay, vũ khí hạt nhân, có ghê gớm không? Hòa bình từ đâu mà có? Hòa bình từ nội tâm của chính mình giác ngộ, thì sẽ có hòa bình. Không giác ngộ, thì hòa bình vĩnh viễn không đến. Vì thế, đối với người, cần nên bao dung lẫn nhau, tôn kính lẫn nhau, tin tưởng lẫn nhau, quan tâm lẫn nhau, lo lắng lẫn nhau, hợp tác lẫn nhau. Cổ nhân nói “Đôn luân tận phận” (Thành khẩn luân thường, hết lòng bổn phận), mới có thể làm được viên mãn. Như thế, mới giống một con người chứ. Con người phải như vậy. Nếu như mấy điều này mà không làm được, thì không giống một con người, hoặc là không giống một con người bình thường. Phật, Bồ tát là một người bình thường. Người xưa nói: Thánh hiền, quân tử là người bình thường. Những người bình thường này là bậc mô phạm của chúng ta, chúng ta nên nghiêm chỉnh nỗ lực học tập.
“Vô tác làm nguồn”. Câu này nói rất hay, không có tạo tác, ở đây, rất gần với Vô vi mà Đạo giáo đã nói, “Vô vi nhi vô sở bất vi”. Đạo Phật thì nói, “Tác nhi vô tác, vô tác nhi tác”, là ý này. Cống hiến cho xã hội, cống hiến cho đại chúng, nhất định không kể công. Trong tâm thản nhiên như không, làm rồi mà cũng như chưa làm vậy, vĩnh viễn bảo trì Thanh tịnh, Bình đẳng, Giác, không bị môi trường bên ngoài ảnh hưởng. Trí tuệ của đức Phật có được là làm như vậy.
“Kinh trung sở diễn, bất khả tư nghị” (Những điều trong kinh nói không thể nghĩ bàn), “Hoặc hữu phản phúc, nan liễu nan minh” (Hoặc có điều gì trái ngược, khó thấu khó hiểu). Điều này chúng ta thường gặp phải, “Thô dĩ lục sự khả tri kỳ ý” (Về mặt thô, dùng 6 việc có thể biết được ý nghĩa của nó). Những lời này đều do đức Phật nói, vì đối tượng đức Phật nói kinh không giống nhau.
Ngày nay, quý vị nhìn thấy chưa chắc đã phải là đối với căn cơ của quý vị. Đối với căn cơ của quý vị, quý vị rất dễ hiểu. Không phải đối với căn cơ của quý vị, quý vị không dễ dàng lý giải được. Nhưng khi đức Phật còn tại thế, Ngài nói cho chúng ta biết 6 việc. Đối với người bình thường mà nói, thì đều có thể lý giải được, rốt cuộc đức Phật đã nói gì?
Thứ nhất là chính đạo, nghĩa là kinh điển đức Phật nói, chỉ ý thâm áo, vô tác vô vi, vô hành vô đắc, tự nhiên đạo hợp, gọi là chính đạo. Nói cách khác, chính đạo nghĩa là hoàn toàn tùy thuận tự tính, chắc chắn không trái ngược lại với tự tính. Chính đạo của Phật pháp là gì? Chính là Thập Thiện Nghiệp Đạo. Khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác, chắc chắn tương ưng với thập thiện, rất tự nhiên. Đây là chính đạo. Nếu trái ngược lại, là đi sai đường rồi, quý vị đã đi vào con đường tà đạo.
Thập thiện là Tính đức. Thập ác là hoàn toàn trái ngược lại với Tính đức, thế là mê rồi. Quý vị xem, cuộc sống hàng ngày của Ngài trong suốt 49 năm, công việc của Ngài là giảng dạy, có phải như vậy không? Vì vậy, Ngài có thể ở trong cuộc sống hàng ngày, trong việc giảng dạy, trong việc ứng phó, Ngài đều có thể làm được không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước. Nhưng mà khi Ngài tiếp chúng, nét mặt luôn mỉm cười. 5 đức của Khổng Tử là ôn, lương, cung, kiệm, nhượng. Chúng ta thấy được ở trên người đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đối với người cung kính, khiêm hạ, lễ nhường. Quý vị quan sát kỹ, quý vị sẽ thấy được hết. Đây gọi là chính đạo.
Thứ hai là thiện quyền. Thiện là thiện xảo, quyền là biến hóa. Nó không phải là một pháp, tùy cơ mà biến đổi, vô cùng hoạt bát. Nghĩa là đức Phật nói kinh, thiện quyền biến hóa, không có phương sở, hoặc xuất hoặc xử, đều thuận cơ nghi, tùy loại khai diễn, khiến người ngộ giải, đều được chứng nhập, gọi là thiện quyền. Ở trong đây có một câu khó hiểu là hoặc xuất hoặc xử. Đây là lời nói của người xưa, nếu dùng cách nói ngày nay, thì quý vị sẽ dễ hiểu thôi. Chúng ta nói hoặc tiến hoặc thoái, thì mọi người dễ hiểu. Xuất nghĩa là tiến, xử nghĩa là thoái.
Thật sự gọi là tùy cơ, không có phương pháp nhất định, không có định pháp để nói, hoàn toàn tùy thuận chúng sinh. Vì thế, đức Thế Tôn từng dạy rằng, trong suốt 49 năm, Ngài không nói một lời nào hết. Câu này là thật đó không phải giả đâu, nghĩa là không nói một câu nào theo ý của riêng mình, đều là người khác. Quý vị hỏi điều gì, thì Ngài trả lời quý vị điều đó, cho nên Ngài nói suốt cuộc đời không có nói qua một câu Phật pháp nào, đều do người khác hỏi, không có phương sở, thiện quyền không có phương sở. Đều thuận cơ nghi, nghĩa là hằng thuận chúng sinh, tùy hỷ công đức. Tùy loại mà khai diễn. Khai là khai thị, nghĩa là nói với họ. Diễn là biểu diễn. Đức Phật đã làm cho họ thấy, mục đích là giúp cho người ngộ giải, khai ngộ. Sau khi khai ngộ, họ mới có thể chứng nhập. Khai diễn ở đây, với khai thị trong kinh Đại thừa, ý nghĩa giống nhau. Biểu diễn ở đây chẳng phải là mô phạm sao? Thị là mô phạm, làm cho mình thấy, diễn cũng có nghĩa là như vậy. Diễn và thị có ý nghĩa giống nhau, cho nên đây là thiện quyền. Trước đây, chúng ta có học, cứu cánh phương tiện có nghĩa là thiện quyền.
Thứ ba là chí giáo. Ở đây càng nói, chúng ta càng dễ hiểu. Nghĩa là Như Lai nói kinh, vì chúng sinh mà chỉ ra tội phúc, khiến cho họ biết được, làm nhân gì thì được quả đó. Không có chuyện làm thiện bị tội, làm ác được phúc. Hiểu rõ việc này, chí vi dễ hiểu, là chí giáo. Chí là nói đến chỗ cuối cùng. Ở trong điều này nói về nhân quả. Nhân quả là sự thật, tuyệt đối không giả đâu. Quý vị làm thiện, chắc chắn có thiện báo. Quý vị tạo ác, chắc chắn có ác báo. Bản thân mình cần nên hiểu tự cầu đa phúc. Quá khứ không biết, nên tạo nhiều ác nghiệp, có thể tha thứ được. Ngày nay biết rồi, quyết tâm sửa đổi, toàn tâm toàn lực tu thiện tích đức, thì tiền đồ của chúng ta càng ngày càng sáng ngời, càng ngày càng hạnh phúc.
Sáng ngời và hạnh phúc chẳng phải do người khác cho chúng ta đâu, mà do bản thân quý vị tạo nhân, thì bản thân quý vị chắc chắn được quả báo tốt. Xã hội ngày nay ra nông nỗi này là nguyên nhân gì vậy? Là do mọi người không hiểu được nghiệp nhân quả báo. Cho rằng mình rất thông minh, lương tâm bị che khuất, có thể chiếm đoạt những thứ của người khác, tưởng rằng đó là tài năng của mình. Sai rồi!
Quý vị có năng lực cướp đoạt đồ của người khác, thế lực của người khác không mạnh như quý vị, không thắng được quý vị. Quý vị đoạt được rồi, quý vị có thể hưởng thụ được không? Số của quý vị không có phúc báo đó, thì sau khi chiếm đoạt được tự nhiên tai nạn sẽ đến, quý vị vẫn không đạt được. Đây là sự thật, không phải giả đâu.
Chúng ta chiếm đoạt đồ của người khác, trộm đồ của người khác, số của quý vị không có, thì trộm cũng trộm không được, chiếm cũng chiếm không được. Quý vị lấy được đồ rồi, thì tai họa cũng ập đến.
Vì sao có người cướp, trộm mà họ không bị tai nạn? Trong nhân quả nói rằng, chẳng phải không có quả báo, mà là thời chưa đến, đến thời rồi thì tất cả thọ báo hết. Vì sao chưa đến thời? Bởi vì trong đời quá khứ, quý vị tu quả báo rất lớn, phúc đó đang che chở cho quý vị. Nhưng mà cái phúc đó quý vị mau chóng hưởng tận. Sau khi hưởng tận, thì quả báo lập tức hiện tiền. Đạo lý nhất định là thế, hà tất phải làm cái việc ngốc đó!
Quý vị vì sự sinh tồn, người ta cũng vì sự sinh tồn. Vì sự sinh tồn của mình mà không để cho người khác sinh tồn, đó là không có đạo lý. Như vậy, sẽ bị quả báo. Trời đất không dung. Người ta nhỏ bé, yếu đuối, không có cách nào chống cự lại quý vị đang to khỏe, thì ông trời đến trừng trị quý vị. Đó là trời đất không dung, quý vị có thể trốn chạy được sao?
Ngày nay, người ta không nói đến những vấn đề này. Trong xã hội không còn nghe thấy nữa. Khi tôi còn trẻ, tôi thường nghe thấy, trong xã hội còn có người nói đến, 60 năm về trước rồi. Xã hội ngày nay không nghe được âm thanh này nữa, cho nên thật sự gọi là vô pháp vô thiên. Vấn đề này rất trầm trọng. Vì thế, nhất định phải tin nhân quả. Quý vị gieo nhân tốt, chắc chắn có quả báo tốt.
Thứ tư là hướng dẫn, nghĩa là Như Lai nói kinh vì những người ngu si mê muội khó bề khai hóa. Dạy hạng người này rất khó khăn, cho nên hiện đời có thể gặt được nhân duyên quả báo, v.v… Khuyên dụ hướng dẫn, khiến cho họ hoan hỷ tin theo mà sinh chính tín, đó là hướng dẫn. Đây là phương pháp đức Phật thường dùng, rất hiệu quả.
Quý vị đối với người bần cùng, đối với người ngu si, mà giảng những đạo lý rất sâu, thì họ không hiểu được. Quý vị kêu họ đến học kinh, họ nói ngày ba bữa cơm tôi còn ăn chưa no, thì lấy đâu ra thì giờ để học những thứ này. Học những thứ này có thể ăn được không?
Lúc tôi mới học Phật, các quý vị đến từ Mỹ đều hiểu được. Khi tôi còn trẻ, có một chút trí tuệ, không có phúc báo, cho nên cuộc sống vô cùng vất vả, hơn nữa lại đoản mệnh. Bản thân tôi hiểu rất rõ, thọ mạng của tôi là 45 tuổi. Vì thế, tôi học Phật, định thọ mạng đến 45 tuổi là vãng sinh, cho nên có thể buông bỏ. Thầy giáo kêu tôi buông bỏ, tôi có thể buông bỏ được, vì biết được thọ mạng không dài.
Vì sao cuộc sống lại vất vả như vậy? Vì đời trước không tu phúc. Thầy bói nói, kho tiền của tôi trống không. Đúng vậy, cho nên tôi thấy Chương Gia Đại sư rất giỏi. Ngài đã nhìn thấu hết, Ngài dạy tôi tu bố thí, tu tài bố thí, tu pháp bố thí, tu vô úy bố thí.
Tôi thưa với Ngài rằng, mỗi tháng tiền lương của con rất ít, con không có tiền để bố thí. Ngài hỏi tôi, có một cắc không? Một cắc thì được. Một đồng có được không? Một đồng, thì hơi miễn cưỡng. Thầy nói cứ từ một cắc, một đồng đó mà bố thí. Tôi rất nghe lời! Sau này, đúng là càng bố thí càng nhiều.
Quý vị xem những năm gần đây, mỗi năm tôi bố thí, hầu như gần một ngàn vạn USD (mười triệu USD). Tiền từ đâu mà có? Tôi không biết, vốn là không nghĩ đến, chứng minh trong kinh đức Phật nói, tiền tài từ đâu mà có? Từ bố thí mà có, càng xả càng nhiều. Trí tuệ từ đâu mà có? Từ pháp bố thí mà có. Mạnh khỏe trường thọ từ đâu mà có? Từ bố thí vô úy mà có. Quý vị chỉ cần thật sự tu ba loại bố thí này, những điều quý vị cầu như tiền tài, trí tuệ, mạnh khỏe, trường thọ đều được.
Bản thân tôi đây làm mô phạm, năm 45 tuổi tôi bị bệnh, nằm hơn một tháng. Sau khi khỏi rồi thì không còn bị bệnh nữa, làm gì vậy? Chính là làm ba việc bố thí này. Ba việc này làm có hiệu quả, nên tôi nghiêm chỉnh làm. Tôi vĩnh viễn không buông bỏ, không nên nghĩ đến bản thân. Bản thân mình chuyện gì cũng có người lo cho, quý vị xem có tự tại không. Không cần phải lo lắng một tí nào. Dùng hết sức mình đi bố thí, có vui không, có tự tại không!
Thứ năm là phúc đức, nghĩa là đức Phật nói kinh vì khiến cho chúng sinh, tu hạnh bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí tuệ, v.v… Điều phục chư căn, không hề phóng dật, thì được phúc báo Nhân, Thiên, trường lạc vô cùng. Đây là phúc đức, điều này mỗi con người chúng ta đều muốn làm.
Tôi theo Chương Gia Đại sư 3 năm. Điều này, Chương Gia Đại sư thường nói với tôi, chỉ cần thật sự tu, thì thật sự tích lũy phúc đức. Phúc đức này chẳng những có thể độ được chính mình, mà còn có thể độ chúng sinh, có thể độ những tai nạn của thế gian này. Những vị lãnh đạo trong các quốc gia này, tôi có duyên gặp gỡ họ, nhưng họ không thể tiếp nhận lời khuyên của tôi. Nếu như họ có thể tiếp nhận lời khuyên của tôi, thì sẽ hóa giải được rất nhiều vấn đề. Đây là sự thật!
Thứ sáu là giới cấm, nghĩa là khuyên chúng ta trì giới. Đức Phật nói kinh, chế các giới cấm, khiến cho tất cả chúng sinh thu nhiếp thân khẩu ý, thanh tịnh không phạm, thì có thể siêu thoát 3 đường khổ. Đây là giới cấm. Đây là nâng cao lên, nghĩa là từ phúc báo, quý vị xem hướng dẫn, phúc đức đến giới cấm. Đó là từng bước từng bước hướng thượng mà nâng lên. Có thể trì giới, có thể niệm Phật, thì có thể siêu thoát lục đạo luân hồi, chắc chắn ở trong Tịnh Độ Tông, tu Trì danh niệm Phật, cầu sinh Tịnh độ. Vì thế, người niệm Phật cầu sinh Tịnh độ, đối với giới luật phải xem trọng.
Giới luật không cần nhiều. Ngũ giới, Thập thiện nhất định quý vị phải làm được. Khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập Niết bàn, Ngài đã để lại cho hàng đệ tử đời sau 2 câu. 2 câu này vô cùng quan trọng. Một đời Ngài đã làm cho chúng ta thấy.
Ngài A Nan hỏi đức Phật: Khi Ngài còn tại thế chúng con đều nương theo Ngài. Ngài nhập Niết bàn rồi chúng con lấy ai để làm thầy? Đức Phật không chỉ định người nào, đức Phật chỉ nói: “Lấy giới làm thầy. Lấy khổ làm thầy”. Có thể trì giới, có thể chịu khổ, thì quý vị có thể thành tựu. Một đời đức Phật Thích Ca Mâu Ni ba y, một bình bát, ngày ăn một bữa, tối ngủ dưới gốc cây. Khi đức Phật nhập Niết bàn là ở ngoài rừng, chứ không phải ở trong nhà.
Biểu diễn ở đây là gì? Biểu diễn là lấy giới làm thầy, lấy khổ làm thầy. Người thế gian thấy cuộc sống vật chất của đức Phật Thích Ca Mâu Ni rất khổ. Kỳ thật, Ngài vui sướng không gì bằng. Quý vị xem, khi Ngài tiếp mọi người, khuôn mặt luôn mỉm cười. Chưa bao giờ quý vị thấy có một ngày nào đức Phật Thích Ca Mâu Ni, với vẻ mặt lạnh lùng không vui cả. Không có! Chưa bao giờ có! Trong tâm Ngài là hòa khí, là hoan hỷ. Trong mắt của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thì tất cả chúng sinh đều là Phật, ngày nào cũng sống với Phật, thì làm sao Ngài không vui được!
Đức Phật nhìn thế giới, trong kinh Hoa Nghiêm nói, “Tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí”, chẳng những chúng sinh hữu tình là Phật, mà chúng sinh vô tình cũng không ngoại lệ, cũng là Phật. Quý vị nghĩ xem, tâm như thế có rộng lớn không. Tâm tình này nhẹ nhàng biết bao. Học Phật là học từ đây. Có một oan gia, có một đối thủ là sai rồi. Chẳng phải là oan gia đó, oan gia đó là Phật, đó là bản thiện. Sai ở chỗ nào? Bản thân mình sai, bên ngoài không sai. Quý vị ra bên ngoài tìm không thấy một người sai, đều là nội tâm của mình.
Chúng ta lấy tập khí phiền não xem bên ngoài, thì bên ngoài đều là phiền não. Chúng ta dùng ý niệm ác để nhìn người ta, thì người ta đều là người ác. Quý vị dùng Phật nhãn nhìn chúng sinh, thì tất cả chúng sinh đều là Phật. Điều này chúng ta cần nên học tập.![]()



























































































































































Bình luận bài viết