Thông tin

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH GIẢI DIỄN NGHĨA - TẬP 31

 

 

Chủ giảng: LÃO PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG

*****

Trưởng ban biên dịch: TK. Thích Đồng Bổn

QUYỂN 4

(Tập 31-40)

 

TẬP 31

 

Giảng ngày 06 tháng 5 năm 2010 Tại Tịnh Tông Học Viện Úc Châu

Biên dịch: Tử Hà - Biên tập: Bình Minh

 

Chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, xin xem tiếp Đại thừa Kinh Vô Lượng Thọ Giải, trang 32, dòng thứ 5, đếm từ dưới lên.

“Phàm phu đới nghiệp vãng sinh Đồng Cư Độ. Dĩ thân văn Phật huấn cố, vô thoái chuyển cố, thọ mạng vô lượng cố, cố tất ư thử nhất sinh, viên đoạn chư hoặc, viên tịnh tứ độ, cố sinh đồng cư, diệc tức sinh thượng tam độ, cố viết viên sinh tứ độ” (Phàm phu đới nghiệp vãng sinh cõi Đồng cư, vì đích thân nghe Phật giáo huấn, nên không thoái chuyển, thọ mạng vô lượng, chắc chắn ở cõi này một đời, đoạn hoàn toàn các hoặc, viên mãn được thanh tịnh 4 cõi. Vì thế, sinh cõi Đồng cư cũng tức là sinh 3 cõi còn lại, cho nên nói: Trọn sinh đến 4 cõi).

Đoạn kinh văn này tổng kết 4 loại Tịnh độ mà chúng ta đã học phía trước. Trong 4 loại Tịnh độ này, thù thắng không gì sánh bằng chính là Đồng Cư Độ. Chẳng những là hết thảy pháp Thế Tôn đã nói 49 năm, hết thảy pháp môn vô lượng chư Phật đã nói, mà Đồng Cư ở thế giới Cực Lạc còn là thù thắng thứ nhất.

Nếu như chúng ta không tìm hiểu và nhận biết rõ sự việc này, thì niềm tin sâu sắc sẽ khiếm khuyết. Chỉ sau khi thông đạt hiểu rõ, thì niềm tin mới được đầy đủ. Tín nguyện viên mãn, giống như Ngẫu Ích Đại sư từng nói: “Nhất định vãng sinh”. Vãng sinh về Đồng Cư Độ, rốt cuộc thù thắng ở điểm nào? Đoạn ngắn này, nói cho chúng ta hiểu rõ.

Phàm phu đới nghiệp”, nên biết chúng ta chính là phàm phu, chúng ta không phải là Thánh nhân, chẳng những không có phần của đại Thánh, mà tiểu Thánh cũng không có luôn. Tiểu Thánh mà chúng ta còn chưa đạt được, từ điểm này chúng ta cảm nhận sâu sắc, và cũng vô cùng hổ thẹn. Học Phật cách nào? Thứ nhất phải trì giới, không trì giới thì chẳng có căn bản. Vì thế, người tại gia học Phật có 3 căn bản; người xuất gia học Phật có 4 căn bản. Thứ hai phải tu tập, phải thật sự tu tập, quý vị mới thành tựu được.

Thật sự tu tập, chúng ta đới nghiệp cầu vãng sinh, đó chính là cần phát nguyện, cần niệm Phật. 3 điều kiện: Tín, Hạnh, Nguyện, quý vị phải có đầy đủ. Chân thật phát nguyện. Nguyện này làm sao mà có? Biết được thế gian này là khổ, khổ không nói hết. Biết được khổ, chúng ta mới phát nguyện thoát ly khỏi thế giới này. Thế giới này có quá nhiều thứ cám dỗ. Tài sắc, danh thực thùy, ngũ dục, lục trần cám dỗ. Biết được khổ là không bị cám dỗ.

Nếu tôi muốn được những sự hưởng thụ của thế gian, thì chính mình nên nghĩ xem, phải trả giá như thế nào? Có đáng không? Không đáng, dù làm đến bậc Quốc vương ở trên thế gian này. Người ta thường nói rằng: “Quý vi thiên tử, phú hữu tứ hải” (Sang làm vua, giàu bốn biển), quý vị có thể hưởng thụ được mấy năm? Đại khái trải qua các triều đại đế vương, người hưởng thụ lâu nhất không ai ngoài Khang Hy. Khang Hy làm hoàng đế 61 năm.

Vua Càn Long không dám vượt quá ông mình, nên làm 60 năm, đem vương vị giao cho con trai, còn bản thân làm Thái thượng hoàng 4 năm rồi cũng ra đi. Vì vậy, quý vị nghĩ xem, có thể hưởng thụ bao lâu? Sau khi hưởng hết phúc báu, thì đi về đâu? Không ra khỏi luân hồi lục đạo. Đã không ra khỏi luân hồi lục đạo, thế thì có thể đoán biết được đời này qua đời khác, kiếp này qua kiếp khác? Đó chính là cái giá mà quý vị phải trả. Tạo phúc bao nhiêu đời, mới có được một đời làm đế vương. Một đời hưởng hết phúc rồi, lại phải đọa lạc bao nhiêu đời nữa, hà tất phải như vậy?

Đây là việc chúng ta phải nhìn thấu hiểu rõ, cho nên chẳng những ngôi vị đế vương của thế gian, không thể cám dỗ được chúng ta mà Đại Phạm Thiên vương, Ma Ê Đầu La Thiên vương, cũng không thể dụ dỗ được một người tu hành. Người tu tập giác ngộ, hiểu rõ thế gian vô lượng kiếp bất quá chỉ là một khảy móng tay mà thôi, phải nên xác định rõ mục tiêu và phương hướng, quyết định trở về tự tính, trở về đại viên mãn. Tự tính là đại viên mãn. Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Thế Tôn có dạy chúng ta: “Hết thảy chúng sinh đều có đức tướng, trí tuệ của Như Lai”. Chúng ta phải tìm lại cái này. Cái này vốn sẵn có, sẵn có nên nhất định phải tìm lại. Lục đạo và mười pháp giới vốn không có, đó chỉ là một cơn ác mộng, tỉnh lại thì không còn nữa. Chúng ta tin rằng, thật sự tỉnh lại trong tâm có đủ. Lục đạo khổ, mười pháp giới khổ, đây là một cơn ác mộng, cho nên thức tỉnh lại không dễ dàng.

Chúng ta rất may mắn, nghe được lời giáo huấn của chư Phật, Bồ tát, hiểu rõ được chân tướng sự thật, không cần đoạn hoặc mà có thể chứng chân. Chân này là pháp hy hữu khó tin. Đồng cư của Cực Lạc, là Tịnh Độ chứ không phải là uế độ, cho nên đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, quý vị sẽ được ba điều lợi. 3 điều lợi này không gì sánh bằng:

Điều lợi thứ nhất, là đích thân nghe Phật thuyết pháp. Điều này không dễ gì gặp được. Nghe Phật nào nói pháp vậy? Nói cho quý vị biết, đến thế giới Cực Lạc nghe Báo thân Phật thuyết pháp. Ở thế giới Tây Phương Cực Lạc, ba thân tức là một thân, một thân tức là ba thân. Chúng ta ở thế gian này, tuy được sinh cùng thời với Phật Thích Ca Mâu Ni, có duyên gặp được Phật Thích Ca Mâu Ni là ứng hóa thân. Ở thế giới Cực Lạc đích thân quý vị nghe được Pháp thân, Báo thân Phật vì quý vị thuyết pháp, có lý nào không khai ngộ được?

Điều lợi thứ hai, là bất thoái chuyển. Đến thế giới Tây Phương Cực Lạc là chứng được bất thoái chuyển, cho nên đức Phật dạy chúng ta, Phàm Thánh Đồng Cư Độ, hạ hạ phẩm vãng sinh, cũng làm A Duy Việt Trí Bồ tát. Điều này rất khó. Chúng ta không thể thành tựu ở thế gian này, vì sao? Tiến bộ quá ít, thoái bộ lại quá nhiều. Đúng là tiến một bước lùi mười bước, cho nên không dễ gì thành tựu.

Điều lợi ích thứ ba, là “thọ mạng vô lượng”. Thế giới Tây Phương Cực Lạc, thật sự là vô lượng thọ. Không phải là số vô lượng của hữu lượng, mà là số vô lượng thật sự. Vì thế, nhất định trong đời này, phải sinh về thế giới Tây Phương Cực Lạc. Đoạn hoàn toàn các hoặc: Đoạn hết Kiến Tư hoặc, Trần Sa hoặc, Vô Minh hoặc. Trong kinh Hoa Nghiêm cũng có dạy: Đoạn hết chấp trước, phân biệt, vọng tưởng. Viên mãn chứng đắc thanh tịnh 4 cõi: Một là bốn, bốn tức là một, cho nên sinh cõi Đồng Cư, chính là đồng thời sinh 3 cõi kia.

Trọn sinh đến 4 cõi: Trong đời này thành tựu viên mãn. Chúng ta nhận thức được như vậy, làm sao không thể vãng sinh? Trong đời này chúng ta có thể đạt được không? Được! Chắc chắn đạt được. Vấn đề ở chỗ quý vị có muốn hay không, có thật sự nhận biết hay không? Sau khi thật sự nhận biết thế gian này, quý vị mới thật sự buông bỏ được. Thế gian này còn có điều gì không buông bỏ được? Nói cách khác, đối với thế giới Tây Phương Cực Lạc, quý vị nhận biết mơ hồ không rõ ràng. Nếu thật sự nhận biết rõ ràng, thì đâu còn gì để nói nữa? Chắc chắn thành tựu, buông bỏ hết tất cả. Sau khi buông bỏ, công việc của chúng ta bây giờ, thứ nhất là phải hiểu rõ vấn đề căn bản, nền tảng.

Có 4 căn bản: Cảm Ứng Thiên, Đệ Tử Quy, Thập Thiện Nghiệp, Sa Di Luật Nghi giới. Có những nền tảng này, thật sự làm, không làm không xong, thật sự làm chính là phát Bồ đề tâm, Nhất hướng chuyên niệm. Thứ ba là hoằng kinh. Mình thành tựu rồi, thì nhất định phải giúp đỡ người khác, chính là tự hành hóa tha, quý vị đã hoàn toàn vào được cảnh giới rồi. Thâm tín nhân quả, đọc tụng đại thừa, khuyến tấn hành giả. Quý vị phải giúp đỡ hết thảy người tu hành, phá mê khai ngộ, hiểu rõ chân tướng sự thật, giống như chính mình vậy, phát nguyện cầu sinh Tịnh Độ, như vậy mới đúng. Giống như con đường tu tập của hết thảy chư Phật mười phương ba đời, một phương hướng, một con đường, thì làm sao không thành công được!

“Hựu thử độ tu hành nan, thoái duyên đa cố” (Lại nữa, cõi này tu hành khó, có nhiều thoái duyên). Chướng ngại khắp nơi. Chướng ngại là gì? Là khiến cho quý vị thoái chuyển, cũng chính là rất nhiều cám dỗ. Nếu quý vị không thắng được sự cám dỗ, là quý vị thoái chuyển.

Ai cám dỗ quý vị vậy? Ma đang cám dỗ quý vị. Oan thân trái chủ đều là ma. Quý vị ở thế gian này, đời này kiếp kia thiếu nợ họ quá nhiều, họ mê hoặc điên đảo, họ muốn báo thù, họ muốn đòi lấy. Nợ mạng phải đền mạng, thiếu tiền phải trả tiền, không trả, thì họ không cam lòng đâu, thường đến làm phiền quý vị, huống là còn có đại Ma Vương ở phía sau, làm chỗ nương tựa của họ.

Chúng ta cũng quá mê, mê quá sâu nặng, chư Phật, Bồ tát muốn giúp cũng không thể giúp được. Chẳng phải chư Phật, Bồ tát không giúp quý vị, mà là không giúp được. Làm sao không giúp được? Vì quý vị không tin tưởng, không nghe lời. Không thắng được sự cám dỗ, thế là bị thoái chuyển thôi! Vì thế, người tu đạo nhiều như lông bò, người đắc đạo thì ít như sừng lân. Vì sao vậy?

Thế giới ngày nay, những thứ mà lục căn của quý vị tiếp xúc, quán sát kỹ, cái nào chẳng phải là sự cám dỗ của danh văn, lợi dưỡng, tài sắc, danh thực thùy chứ? Quý vị có thể chịu đựng được, có thể thắng được sự khảo nghiệm này chăng? Do vậy, người thoái chuyển rất nhiều. Đó là hiện tượng rất bình thường.

Thật sự bất thoái chuyển chỉ có 2 hạng người: Hạng thứ nhất, là người nhiều đời trong kiếp quá khứ đã tu tập, thiện căn thâm hậu. Hạng người này bất thoái chuyển. Hạng người thứ hai, chính là huân tập kinh giáo, tuy thiện căn đời trước chưa sâu dày, nhưng đời này có nhân duyên thù thắng. Không ngày nào xa rời kinh giáo, loại huân tập này cũng phải có nền tảng. Nền tảng là gì vậy? Nền tảng chính là căn tốt, trồng sâu, làm thiệt Hạnh nguyện chân thật, Phát Bồ đề tâm, Nhất hướng chuyên niệm. Có nền tảng như vậy, hằng ngày không rời kinh giáo, tự hành chính là hóa tha, hóa tha chính là tự hành.

Học tập kinh giáo, nhất định phải tuân theo quy củ xưa, phương pháp xưa. Là gì? Là do tôn giả A Nan để lại. Tôn giả A Nan kết tập kinh tạng, Ngài lên pháp tòa giảng kinh, giảng lại, không có ý riêng của mình. Trên pháp tòa, thêm vào ý của mình là sai rồi! Vì sao vậy? Ý của mình từ đâu mà có? Từ tâm ý thức mà có. Đức Phật khi còn tại thế, kinh giáo, những thứ Ngài giảng từ đâu mà có? Từ tự tính lưu xuất ra.

Quý vị chưa chuyển thức thành trí. Quý vị giảng từ A Lại Da thức lưu xuất ra. Tự tính lưu xuất là sự lưu xuất của chân tâm. A Lại Da lưu xuất là sự lưu xuất của vọng tâm. Dùng vọng tâm, thì làm sao quý vị có thể thành tựu được. Vì thế, đạo Phật đời đời kiếp kiếp giảng kinh, đều tuân theo quy củ xưa này, tự tính lưu xuất. Chúng ta vẫn chưa kiến tính, nên y theo phương pháp của người xưa mà giảng, đừng thêm suy nghĩ của riêng mình vào trong đó. Phải là giảng lại, đều như thế mà thành tựu, ngay cả thời cận đại này cũng thế thôi.

Tôi còn nhớ năm 1977, lần đầu tiên nhận lời mời của người bạn người HongKong, là Pháp sư Thánh Hoài, năm ngoái Ngài vãng sinh rồi, mời tôi sang Hong Kong giảng kinh Lăng Nghiêm. Ở HongKong tôi gặp Pháp sư Diễn Bồi. Pháp sư Diễn Bồi khi đó là đại pháp sư, rất nổi tiếng. Tứ chúng đồng tu ở HongKong thuê một chiếc xe lớn, đưa Ngài đi tham quan khắp HongKong. Đúng dịp tôi giảng kinh ở HongKong, nên mời luôn cả tôi. Từ đó, tôi quen biết Diễn công.

Tôi và Diễn công nói chuyện Phật Học Viện. Ngài nói Phật Học Viện không đào tạo được nhân tài. Ngài chỉ tôi nói, ngày nay thầy giảng kinh ở đây, thầy không phải là người xuất thân từ Phật Học Viện. Không sai, chúng tôi đều xuất thân từ chỗ trùng tuyên lại.

Ở Đài Trung của chúng tôi, thầy Lý mở một lớp học kinh, có hơn 20 học sinh học giảng kinh. Giảng cách nào? Trùng tuyên lại. Vào thời đó rất khó khăn, không có thâu âm, ghi hình. Những thiết bị này đều không có. Nhờ vào cái gì? Nhờ vào ghi chép. Ai tài giỏi, thì ghi chép lại toàn bộ những gì thầy giảng. Ai không có khả năng này, thì các bạn giúp đỡ lẫn nhau.

Thầy giáo giảng bộ kinh này, dạy các bạn giảng. Mỗi vị học sinh đều ghi chép, nhưng mà phương pháp của thầy giáo là mỗi lần kêu 2 người. 2 người này ngồi trước mặt thầy, có nghĩa là những người khác đều là dự thính, chỉ dạy 2 người này.

Sau khi 2 vị này học xong, đến tuần sau lên bục giảng, giảng cho mọi người cùng nghe, không được có ý kiến của riêng mình. Không ghi chép kịp, thì các bạn giúp cho. Hết thảy các bạn ghi xong, rồi đưa hết cho người này. Người này đem về soạn lại, viết thành một bài giảng hoàn chỉnh.

Sau khi viết xong bài giảng này, giảng cho cả lớp nghe một lần, có cả thầy giáo đến nghe. Trong khi giảng, có chỗ cần sửa, có chỗ cần thêm, sau đó soạn lại bài giảng lần thứ hai. Bài giảng lần thứ hai này, vẫn phải lên bục giảng, giảng lại cho các bạn cùng nghe. Mọi người đồng ý là được rồi. Lần thứ ba là lên pháp tòa giảng cho Phật tử nghe. Một tuần giảng một lần, mỗi lần một tiếng đồng hồ, mà phải bỏ ra thời gian một tuần lễ. Phương pháp này rất đần độn, nhưng lại rất hữu hiệu. Bài giảng một giờ đồng hồ, phải viết 8.000 từ. Mỗi tuần phải viết bài giảng 8.000 từ, trên thực tế thì không đến hai giờ đồng hồ, mà là một giờ rưỡi. Một giờ rưỡi, một người giảng tiếng Phổ thông, một người giảng tiếng Đài, giống như là phiên dịch. Nhưng thực ra là cùng một bài giảng, mà 2 người cùng lên giảng. Trên thực tế, thời gian giảng kinh là 45 phút. Bài giảng 8.000 từ, không dễ đâu, khổ học mà ra đó.

Học giảng kinh, đại khái là một bộ kinh, thầy giáo quy định, ít nhất không dưới 3 lần, nhiều nhất không thể quá 10 lần. 10 lần là 2 tháng. Mỗi tuần 1 lần, 3 lần là 3 tuần, rất có hiệu quả!

Học tập giảng kinh vào thời đó, đúng như lời thầy Lý từng nói, ăn cơm không biết ngon dở, ngủ không yên giấc. Thời gian một tháng, hơn một tháng, toàn tâm toàn lực đều để vào kinh, đó gọi là khổ học.

Vì vậy, điều kiện cơ bản để giảng kinh, thứ nhất, lý giải hay; thứ hai, trí nhớ tốt. Không có 2 điều kiện này, thì không thể giảng kinh được. Phật tử nghe kinh rất nhiều. Người giảng kinh được tuyển chọn từ trong những Phật tử nghe kinh đó. Người đó, có 2 điều kiện này, nghe kinh có thể lý giải, có thể ghi nhớ. Không có 2 điều kiện này, thì không thể nào học giảng kinh được.

Tôi theo học lớp này, học tập ở lớp này, học được rất nhiều. Tôi vẫn chưa đến lượt thầy giáo dạy mình giảng kinh, có nghĩa là tôi vẫn chưa có tư cách ngồi trước mặt thầy giáo, là phải lên bục giảng để giảng. Tôi ngồi phía sau, ngồi phía sau nghe ké thôi.

Tôi may mắn ở chỗ, chính là có đủ 2 điều kiện trên. Tôi lý giải được, và trí nhớ rất tốt. Tôi nghe thầy giáo giảng một giờ đồng hồ, kêu tôi trùng tuyên lại, thì ít nhất tôi cũng có thể giảng được 55 phút. Tôi có năng lực đó, cho nên đã giúp đỡ các bạn cùng học trong lớp rất nhiều. Họ bỏ sót hoặc quên mất đoạn nào đều đến tìm tôi. Tôi đã nhiều lần nói với các bạn, khi tôi học giảng kinh, một tháng là một bộ kinh.

Tôi ở Đài Trung 15 tháng. Một năm ba tháng, tôi học được 13 bộ kinh. 13 bộ kinh này tôi đều giảng được. Tôi chỉ ngồi nghe ké thôi, vì cách dạy của thầy giáo là theo thứ tự trước sau. Tôi là người sau cùng gia nhập vào lớp này, cho nên tên tôi sau cùng, chưa đến lượt mình, là tôi đã đi rồi.

Khi đó, nhân duyên xuất gia thành thục. Xuất gia xong là tôi đi dạy ở Phật Học Viện. Tôi học được 13 bộ kinh, có thể giảng được 13 bộ kinh. Đi dạy Phật Học Viện, trùng tuyên lại rất vất vả, nhưng hiệu quả cao. Nếu không học từ cách này, trong đạo Phật nói, xuất thân từ Khoa Ban, đó là hoàn toàn học theo quy củ. Nếu không học theo quy củ, thì rất khó khăn giảng kiến thức của thầy giáo, của người khác.

Vì vậy, lần này là lần thứ 11 tôi giảng kinh Vô Lượng Thọ, giảng lại kiến thức của thầy giáo, không có kiến thức của riêng mình diễn nghĩa; còn Kinh, là của Hạ Liên lão cư sĩ hội tập. Hạ lão là ai vậy? Hoàng Niệm Tổ lão cư sĩ, đều là chư Phật, Bồ tát tái lai. Không phải những vị tái lai, thì không thể làm được những việc này đâu.

Quý vị xem, Vương Long Thư đời Tống làm rồi, Ngụy Mặc Thâm đời Thanh làm rồi, Bành Tế Thanh cũng từng thưởng thức, đều không đầy đủ, đều có khiếm khuyết. Đến lần thứ 3 này, Hạ lão cư sĩ hội tập lại, tốn mất bao nhiêu thời gian? 10 năm. Không dễ dàng! Đó là làm mẫu cho chúng ta, làm gương cho chúng ta. Khiêm hạ, từ tốn. Hoàng Niệm Lão thọ nhận lời phó chúc của thầy giáo, chú giải bộ kinh này.

Hoàng Niệm Tổ lão cư sĩ, đích thân nghe Hạ lão giảng kinh Vô Lượng Thọ, thu tập kinh luận, các vị Đại đức chú thích, giảng thuật, tổng cộng có 193 loại, làm dẫn chứng; đây là Bồ tát tái lai, chứ không phải là phàm phu. Họ xuất hiện ở thế gian này, sứ mệnh duy nhất, chính là hoàn thành công việc này. Bộ kinh giải này, phổ độ chúng sinh thời Mạt pháp 9.000 năm sau, đồng quy Cực Lạc. Nhân duyên này, thù thắng quá!

Tôi ở Đài Trung 10 năm, thân cận thầy Lý. Nhân duyên đó cũng hy hữu không gì sánh bằng. Gặp được pháp môn này, gặp được bộ kinh giải này, tôi vẫn chưa gặp được cuốn chú giải của Hoàng Niệm Tổ lão cư sĩ. Gặp được cuốn chú thích của thầy Lý, tôi dùng lời chú thích của thầy ấy giảng 3-4 lần, mới gặp được cuốn chú giải của Hoàng lão cư sĩ. Lần này, tôi hoàn toàn giảng chú giải, làm theo các vị đại đức ngày xưa, từng nói: “Thuật nhi bất tác. Tín nhi háo cổ” (Thuật lại không trước tác. Tin tưởng quý chuộng xưa), không có cái gì của mình hết. Kinh là của Phật nói, giải là của Bồ tát nói. Học sự khiêm hạ và cung kính của người xưa, thì con đường tu tập của chúng ta sẽ dễ dàng, không là con đường khó đi nữa.

“Cực Lạc thành Phật dị, vô thoái chuyển cố” (Ở Cực Lạc thành Phật dễ dàng, vì không thoái chuyển). Vì sao phải vãng sinh về thế giới Tây Phương Cực Lạc? Vì cõi trần này, tu hành quá khó. Hết thảy chư Phật Như Lai ba đời mười phương, đều hướng dẫn người tu hành cầu sinh Tịnh Độ. Chư Phật Như Lai không ích kỷ, không vì mình, đều muốn giúp mọi người thành tựu. Nơi nào nhân duyên thù thắng, thì giới thiệu cho chúng sinh đi về đó. Niệm niệm đều nghĩ độ chúng sinh. Niệm niệm đều mong chúng sinh quay đầu, mong chúng sinh thành Phật, không bao giờ nghĩ đến bản thân mình.

“Trong kinh, phẩm Vãng Sinh Chính Nhân dạy: “Các người vãng sinh đều đắc A Duy Việt Trí”, chứng trọn vẹn 3 bất thoái. “Các người vãng sinh”. Câu này rất quan trọng. Bốn cõi, ba hạng, chín phẩm, bất luận là phẩm vị nào, bất luận là chúng sinh có căn tính gì, chỉ cần quý vị có thể vãng sinh về thế giới Cực Lạc, hạ hạ phẩm ở Đồng Cư Độ cũng tốt, cũng là Bồ tát A Duy Việt Trí. “Đều có kim sắc thân đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, đều được làm Phật”. Đó là khẳng định, nghĩa là Phàm Thánh Đồng Cư Độ. Vì sao vậy? Kim sắc thân, 32 tướng, đều có nơi Đồng Cư Độ. Tướng của người vãng sinh giống như tướng của Phật A Di Đà.

“Cực Lạc thắng ư thập phương giả, thủ tại đới nghiệp phàm phu, nhất sinh bỉ quốc tiện đắc A Duy Việt Trí, A Duy Việt Trí, thử phiên Bất Thoái” (Cõi Cực Lạc hơn các cõi khác trong mười phương, chính là phàm phu mang theo nghiệp. Một khi sinh về cõi kia, tức liềnđược A Duy Việt Trí. A Duy Việt Trí, Trung Hoa dịch là Bất Thoái).

A Duy Việt Trí là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch nghĩa là Bất thoái chuyển. Gồm 3: Vị bất thoái, Hành bất thoái, Niệm bất thoái. Thứ nhất, Vị bất thoái, “nhập Thánh lưu”, Thánh nhân, Thánh lưu, khu vui chơi của Thánh nhân. Phải cần điều kiện gì? Ở thế giới của chúng ta đây phải đoạn Kiến hoặc, quý vị mới có thể nhập Thánh lưu. Thánh lưu là Sơ quả của Tiểu thừa, còn Đại thừa thì kinh Hoa Nghiêm có ghi, đó là Bồ tát Sơ Tín trong Thập Tín, trong Phật pháp gọi là tiểu tiểu Thánh, Sơ quả.

Phải buông bỏ Thân kiến, không nên chấp trước thân là của mình. Phải buông bỏ Biên kiến, quyết định không có niệm đối lập, không đối lập với mọi người, không đối lập với sự việc, không đối lập với hết thảy vạn vật. Buông bỏ hết. Kế đến, buông bỏ Thành kiến, chính là buông bỏ ý kiến của riêng mình. Thành kiến lại chia làm thành kiến của nhân và thành kiến của quả. Thành kiến của nhân gọi là Giới thủ kiến. Thành kiến của quả gọi là Kiến thủ kiến. 2 loại thành kiến này đều không có. Quý vị nên biết, tâm thanh tịnh hiện tiền, vừa mới hiện tiền, Thanh tịnh, Bình đẳng, Giác, hết thảy những kiến giải sai lầm, đều buông bỏ hết. Vì sao vậy? Hoàn toàn nương vào sự giáo huấn của Thánh giáo. Đối với Thánh giáo không hề nghi hoặc.

Thông thường, người ta học Phật khó khăn, cho rằng trong kinh điển có ý kiến riêng của mình, cho rằng không thích hợp với xã hội hiện đại, không thích hợp với sự tu tập của chúng ta ngày nay. Họ đã khởi tâm như vậy, ắt sẽ bị chướng ngại, không thể nhập vào Thánh lưu, bởi họ đã khởi phiền não, khởi phân biệt, khởi chấp trước. Nếu chúng ta đối với kinh giáo, không khởi phân biệt, không khởi chấp trước, như thế là đúng. Nhưng khó! Vô cùng khó! Đặc biệt là giới luật. Đối với giới luật, tôi có niềm tin.

Chương Gia Đại sư bỏ ra 3 năm, Ngài là người có trí tuệ, thiện xảo phương tiện, vì tôi theo đạo Phật, là bước vào từ con đường học thuật. Học triết học với thầy Phương, ở trong đây có sự phân biệt, chấp trước nghiêm trọng. Thầy Phương khi đó cũng có, thầy nói: Trong Phật pháp, có một bộ phận là triết học cao thâm, còn có một bộ phận là tôn giáo mê tín. Nhưng thứ đó chúng ta nên bỏ đi, cho nên trong 10 tông, thầy Phương chỉ chú trọng Tính Tông và Tướng Tông. 2 tông Tính, Tướng là triết học.

Tôi chịu ảnh hưởng của thầy rất nhiều, đặc biệt là đối với giới luật. Giới luật là chuẩn mực trong cuộc sống hàng ngày. Trung Quốc và Ấn Độ, có chuẩn mực không giống nhau. Trung Quốc và các nước đồng văn, từ thời đạo Nho nói về Lễ, đó là chuẩn mực. Và mỗi thời mỗi khác, đều có sửa đổi, thích hợp với tình trạng sinh hoạt hiện tiền, giống như pháp luật vậy, cứ cách một thời gian là phải sửa lại một lần. Người xưa hành lễ, kính lễ nhất là ba quỳ chín khấu đầu lạy, còn thời nay kính lễ nhất là vái ba vái. Vì thế, chúng ta chỉ cần học ở chỗ tinh thần, không cần học ở phương thức. Thành kiến của chúng ta rất sâu dày, phân biệt, chấp trước cũng rất nghiêm trọng.

Chương Gia Đại sư biết được căn bệnh của những người trẻ chúng ta nên không thể nói, vì có nói chúng ta cũng không chịu nghe, có nói cũng vô dụng. Thiện xảo phương tiện của Ngài, mỗi lần tôi đến thăm Ngài, khi ra về Ngài đều đưa đến cổng. Đưa đến cổng, Ngài nói với tôi một câu: “Giới luật rất quan trọng”. Ngài chỉ nói một câu này, cho nên câu này, tôi nghe rất quen thuộc. Tôi đã nghe mấy chục lần.

Nay, thầy giáo vãng sinh rồi. Tôi theo thầy 3 năm. Lúc tôi theo thầy, thầy 65 tuổi. 68 tuổi, thì thầy ra đi. Tôi theo thầy, năm đó tôi 26 tuổi. Khi hỏa táng thầy, đơn độc làm một đài hỏa táng riêng, tôi và Cam Châu Hoạt Phật, cùng với mười mấy người nữa, dựng mấy túp lều bên lò hỏa táng. Tôi ở trong lều ban ngày. Ở đó ban ngày, suy nghĩ kỹ, tôi theo thầy 3 năm, thầy đã dạy tôi những gì?

Vừa phản tỉnh, ấn tượng sâu đậm nhất chính là câu “Giới luật rất quan trọng”, thầy đã nhắc nhiều lần. Tôi đã cố gắng tìm giới luật của đạo Phật đọc, nghiên cứu một việc, Phật pháp là pháp xuất thế gian. Ngày trước, chúng tôi lấy pháp thế gian để nhìn pháp xuất thế gian, thậm chí còn mang theo một chút phỉ báng trong đó nữa.

Sai rồi! Thế gian pháp và xuất thế gian pháp không giống nhau. Thế gian có thiên lưu biến hoá, chuẩn mực trong cuộc sống có thay đổi; xuất thế gian, thì không thể thay đổi. Xuất thế gian mà thay đổi, thì không thể xuất được thế gian đâu. Nghĩ tới điểm này, tôi đã tiếp nhận được, dụng công học tập. Bởi vì, thế gian không đoạn phiền não; xuất thế gian, thì nhất định phải đoạn. Quý vị không đoạn, thì không thể xuất thế.

Sau này, tôi mới biết được luân hồi từ đâu mà có? Luân hồi là do phiền não Kiến Tư hoặc biến hiện ra. Nói cách khác, là từ chấp trước mà có. Nếu chúng ta thật sự buông bỏ chấp trước, thì kiến giải, tư tưởng của chúng ta không sai lầm, lục đạo sẽ không còn nữa. Lục đạo là cách suy nghĩ sai lầm của chúng ta, cái thấy sai lầm của chúng ta biến hiện ra.

Cái thấy sai lầm quá nhiều, đức Phật chia chúng thành 5 loại: Thân kiến, Biên kiến, Kiến thủ kiến, Giới thủ kiến, Tà kiến. Buông bỏ được hết 5 loại thấy này, thì mới chứng được quả vị Tu Đà Hoàn, nhập Thánh lưu, ‘không đọa phàm phu’. Không ra khỏi lục đạo, nhưng sẽ thế nào đây? Đã chứng được Sơ quả Tiểu thừa rồi, quý vị ở thế gian này, 7 lần lui tới cõi Trời, cõi Người tu tập, quý vị sẽ chứng được quả vị A La Hán, không đọa vào ba ác đạo, cho nên gọi là Thánh nhân, Vị bất thoái.

Thứ hai là Hành bất thoái: Trừ Kiến Tư hoặc, lại đoạn Trần Sa, thường độ chúng sinh, không rơi xuống hàng Tiểu thừa, đó là Bồ tát. Đoạn hết Kiến Tư phiền não, tương đương với A La Hán, nhưng người này không phải A La Hán. Trong kinh Hoa Nghiêm nói là Bồ tát Thất Tín vị, nhập Thánh lưu là Sơ Tín vị. Giống như tiểu học, lớp 1 của tiểu học là nhập Thánh lưu. Hành bất thoái vị là lớp 7 trở lên. Vì sao vậy? Vì người này giáo hóa chúng sinh, ra khỏi lục đạo rồi. Lục Tín vẫn chưa ra khỏi lục đạo. Vậy Lục Tín ở đâu? Ở chỗ trong kinh giáo thường nhắc tới đó là Tứ thiền Thiên tu tập, người này không xuống, ở Tứ thiền Thiên.

Trong Tứ thiền Thiên, có một loại gọi là Ngũ Bất Hoàn Thiên. Tứ thiền Thiên có 9 tầng. Tầng trên cùng là Ngũ Bất Hoàn Thiên, là nơi các vị A Na Hà mở độ tập. Người lợi căn, thì ngay nơi đó chứng quả A La Hán, thoát ly lục đạo. Nếu là quý vị độn căn, thì còn phải thông qua Tứ Không Thiên. Lợi căn, thì không cần phải thông qua. Từ Tứ thiền trực tiếp đến Thanh Văn, Thanh Văn trong Tứ thánh. Người này đến được đó, là thoát ly sinh tử luân hồi. Người này độ chúng sinh, cho nên không đọa nơi Tiểu thừa. Tiểu thừa chỉ lo cho mình, thành tựu cho mình, không hề nghĩ tới việc giúp người khác, cho nên Bồ tát trong kinh Hoa Nghiêm, niệm niệm không rời chúng sinh. Đó là Hành bất thoái.

Thứ ba là “Niệm bất thoái, phá Vô minh, hiển Phật tính”. Đây chính là đoạn hết vô thỉ vô minh. Trong hội Hoa Nghiêm, chúng ta thường nhắc đến, “bất khởi tâm, bất động niệm”. Lục căn tiếp xúc với cảnh giới lục trần, kiến, văn, giác, tri, (thấy, nghe, rõ, biết), đó là Tuệ, không hề khởi tâm động niệm. Khởi tâm động niệm còn không có, thì làm sao có phân biệt, chấp trước? Vì thế, 3 loại phiền não lớn: Kiến Tư phiền não, Trần Sa phiền não, Vô Minh phiền não đều đã đoạn hết, không còn trong mười pháp giới nữa, siêu việt mười pháp giới. Người này đi đâu? Đến Nhất chân pháp giới. Người này đến Thật Báo Trang Nghiêm Độ của chư Phật Như Lai. Từ Sơ Trụ của Viên Giáo, cho đến Bồ tát Đẳng Giác đều ở đó, đều ở nơi Thật Báo Trang Nghiêm Độ.

Hiển Phật tính, tức là kiến tính. Minh tâm kiến tính, kiến tính thành Phật. “Niệm niệm chảy vào biển quả của Như Lai”. Biển quả của Như Lai chính là tự tính, cũng chính là Thường Tịch Quang mà trong Tịnh độ chúng ta thường nói. Niệm niệm lưu nhập Thường Tịch Quang, đó là 3 loại bất thoái.

“Dĩ thượng tam chủng bất thoái, nhược tại thử độ tu trì” (Ba loại bất thoái trên đây, nếu ở thế giới này chúng ta tu trì). Tu là tu hành, sửa đổi những hành vi sai lầm, tư tưởng sai lầm. Đó là tu. Trì là bảo trì. “Tu đoạn Kiến hoặc”, bắt đầu từ chỗ này, “như Sơ quả của Tạng Giáo”, quả Tu Đà Hoàn. “Kiến Địa của Thông Giáo, Sơ Trụ của Biệt Giáo, Sơ Tín của Viên Giáo, gọi là Vị Bất Thoái”. Đây là y cứ Tứ Giáo: Tạng, Thông, Biệt, Viên.

Tu Đà Hoàn của Tiểu thừa là Tạng Giáo. Tạng Giáo là Tiểu thừa. Tu Đà Hoàn tương đương với Kiến Địa Bồ tát của Thông Giáo, Sơ Trụ Bồ tát của Biệt Giáo, Sơ Tín Bồ tát của Viên Giáo. Công phu đoạn chứng, đoạn phiền não của họ là bình đẳng ngang nhau, nhưng trí tuệ không giống nhau, không tương đồng, trí tuệ cao nhất là Sơ Tín của Viên Giáo. Trí tuệ kém nhất chính là Sơ quả của Tạng Giáo.

“Bồ tát của Thông Giáo, Bồ tát Thập hồi hướng của Biệt Giáo, Bồ tát Thập Tín của Viên Giáo, gọi là Hành Bất Thoái”. Họ sẽ không thoái chuyển thành Tiểu thừa.

“Bồ tát Sơ Địa của Biệt Giáo, Sơ Trụ của Viên Giáo, gọi là Niệm Bất Thoái”, trong đây không có Tạng Giáo, cũng không có Thông Giáo.

Bồ tát Sơ Địa của Biệt Giáo, công phu đoạn chứng giống như Sơ Trụ của Viên Giáo, phá một phẩm vô minh, chứng được một phần Pháp thân, đó là Thật Báo Trang Nghiêm Độ. Vậy, Phật của Tạng Giáo và Phật của Thông Giáo ở đâu? Ở trong mười pháp giới, không ra khỏi mười pháp giới, cho nên nói Tương tự tức Phật, không phải là Phật thật. Vị này chưa chuyển A Lại Da thức thành Đại viên cảnh trí, nhưng Sơ Trụ của Viên Giáo và Sơ Địa của Biệt Giáo, thì chuyển rồi. Chuyển 8 thức thành 4 trí, dùng chân tâm chứ không dùng vọng tâm nữa. Dùng chân tâm chính là Niệm bất thoái. Công phu đoạn chứng của Biệt Giáo và Viên Giáo đồng nhau, mà trí tuệ, đức năng không đồng nhau. “Chỉ pháp môn Tịnh Độ này, vô cùng siêu việt viên mãn không thể nghĩ bàn”. Đó là giảng theo Tứ Giáo, hoặc là Ngũ Giáo trong kinh Hoa Nghiêm: Tiểu, Thỉ, Chung, Đốn, Viên, đều giảng về thứ lớp, từng cấp bậc từng cấp bậc từ dưới đi lên.

Tịnh độ thì không như vậy. Chúng ta ở nhân gian này, không đoạn một chút phiền não, so với quả Tu Đà Hoàn của Tiểu thừa còn thua xa, không thể so bì được, nhưng có thể vãng sinh về thế giới Cực Lạc. Đây gọi là hoành xuất, chứ không phải thụ xuất, không phải từng bước từng bước tiến lên, đi ra từ phía trên, chúng ta đi ra từ bên cạnh. Tuy là hoành sinh, nhưng là viên siêu. Siêu đến đâu? Siêu qua Sơ Trụ của Viên Giáo, Sơ Địa của Biệt Giáo, trực tiếp chứng đắc Bồ tát A Duy Việt Trí, không thể nghĩ bàn. “Phàm ngườivãng sinh, không còn đọa vào phàm địa, chứng Vị bất thoái”. Chúng ta ở cõi này, muốn chứng được Sơ quả của Tạng Giáo, quý vị thử xem, đoạn 5 loại Kiến hoặc, quý vị có thể làm được không? Cái đầu tiên là Thân kiến, quý vị phá được chăng? Không còn chấp trước thân này là mình nữa, thật sự xem thân thể này giống như bộ quần áo vậy, thân chắc chắn không phải là mình; không còn đối lập với mọi người nữa, quý vị làm được không? Thật sự buông bỏ được Thành kiến chăng? Bản thân mình không có chủ trương, hết thảy tùy duyên. Khó quá! Nói thì dễ, nhưng làm thì khó lắm! Quý vị không làm được, thì quý vị không chứng được quả vị này, trong pháp Đại thừa giảng, Bồ tát Sơ Tín vị.

Khi ở Mỹ, tôi thường khuyến khích các đồng học, có tới vài ba chục năm rồi, khuyên mọi người cũng như khuyên chính mình, buông bỏ tự tư, tự lợi, buông bỏ danh văn, lợi dưỡng, buông bỏ hưởng thụ ngũ dục, lục trần, buông bỏ tham, sân, si, mạn. Tôi nói thật, chúng ta buông bỏ hết, sự tu tập của chúng ta sẽ tiến bộ. Trong Phật pháp sẽ là cấp bậc nào? Là ở cửa vào Sơ Tín vị, vẫn chưa vào trong được.

Chúng ta cho rằng bản thân mình rất giỏi, nhưng chỉ ở ngoài cửa không được vào trong. Làm thế nào để được vào trong? Phải dùng điều kiện trong kinh mà đức Phật đã dạy, thật sự đoạn hết 5 loại Kiến hoặc, quý vị mới có thể chứng được Bồ tát Sơ Tín vị.

Cái gì chứng minh quý vị đã thật sự đoạn hết? Là tâm thanh tịnh hiện tiền. Trong kinh này nói là Thanh tịnh, Bình đẳng, Giác. Tâm thanh tịnh vừa mới hiện tiền, giống như sáng sớm, mặt trời vẫn chưa mọc, ánh sáng mặt trời nhìn thấy được, nhìn thấy ánh ban mai, ở trong cảnh giới này thôi. Bản năng của chúng ta, bản năng chính là 6 thần thông, có 2 loại xuất hiện, đó là Thiên nhãn thông và Thiên nhĩ thông. Có được Thiên nhãn thông, nghĩa là quý vị nhìn xuyên suốt không gian, quý vị có thể nhìn thấy tình hình trong lục đạo. Bởi vì quý vị mới có được, nên năng lực còn yếu, tiểu thần thông, 2 loại này chắc chắn có được.

Nếu không có 2 loại này, thì chắc chắn quý vị vẫn chưa chứng được Sơ Tín vị, đến Nhị Tín, Tam Tín, lại có thêm 2 loại thần thông nữa, là Tha tâm thông và Túc mạng thông, đến Tứ Tín và Ngũ Tín, năng lực từ từ mạnh lên, đến Lục Tín vị, thì có được Thần túc thông, đến Thất Tín vị, có được Lậu tận thông, cũng có nghĩa là đoạn hết phiền não Kiến Tư hoặc.

Chỗ này nói là đoạn hết phiền não Kiến Tư hoặc, phục đoạn Trần Sa. Bồ tát Thất Tín trở lên, người này vào trong lục đạo để giáo hóa chúng sinh, đó là Tiểu Bồ tát vào trong lục đạo giáo hóa chúng sinh. Đôi khi sức mạnh của mình không hàng phục được, chỉ phục đoạn (làm cho phiền não phủ phục, chưa đoạn dứt), sẽ vẫn bị thoái chuyển, vẫn bị đọa lạc. Nhưng không lo sợ, Đại Bồ tát sẽ giúp đỡ họ, khi người này gặp phải ma chướng. Đại Bồ tát sẽ đến cứu giúp, họ sẽ tiếp nhận, dễ dàng quay đầu.

Trong kinh Kim Cương, đức Phật phó chúc cho các vị Đại Bồ tát, thường hộ niệm cho Tiểu Bồ tát. Tiểu Bồ tát là nói đến Thập Tín vị, Thập Trụ trở lên thì gọi là Đại Bồ tát là từ Sơ Trụ trở lên, Biệt Giáo là từ Sơ Địa trở lên, Viên Giáo là từ Sơ Trụ trở lên. Phàm người vãng sinh, không còn đọa vào phàm địa, chứng đắc Vị bất thoái.

“Cực Lạc quốc độ, duy nhất Phật thừa, cố bất đọa Tiểu thừa, vị Hành bất thoái” (Cõi nước Cực Lạc chỉ có một Phật thừa, cho nên không đọa vào Tiểu thừa, là Hành bất thoái). Thế giới Tây Phương Cực Lạc, thật sự giống như đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói trong kinh Pháp Hoa: Duy chỉ pháp Nhất thừa, không hai cũng không ba. Thế giới Tây Phương Cực Lạc không có Tam thừa, không có Nhị thừa, chỉ có một Phật thừa. Lại như trong kinh Hoa Nghiêm nói, 41 vị Pháp thân Đại sĩ, các vị này, chúng ta không cần phải tìm hiểu, chỉ đề xuất Pháp thân Đại sĩ, chính là Nhất thừa pháp. Các vị đó không thể nói là thật có, cũng không thể nói là không thật có (phi hữu phi vô). Trong kinh giáo, chúng tôi đã giảng rất nhiều lần, đó là tập khí vô thỉ vô minh. Thật sự đoạn hết vô thỉ vô minh, thật sự không khởi tâm, không động niệm, nhưng tập khí không dễ dàng đoạn, đó là Hành bất thoái.

“Ký sinh Đồng cư, tức đồng sinh thượng tam độ, viên tu viên chứng, ư thử độ trung tất phá vô minh, hiển Phật tínhnhi chứng Niệm Bất thoái” (Đã sinh đồng cư, tức đồng sinh ba độ (cõi) còn lại, viên tu viên chứng; ở trong cõi này, ắt phá vô minh, hiển Phật tính, mà chứng Niệm bất thoái). Đây là nói về trạng thái tu tập ở thế giới Tây Phương Cực Lạc, đại khái là như vậy. Ở thế giới trong mười phương không có, cho nên tu tập ở thế giới Cực Lạc mau thành Phật, hết thảy mọi chướng duyên đều không tồn tại.

“Ư niệm bất thoái trung siêu tận tứ thập nhất nhân vị, nhất sinh thành Phật” (Ở trong Niệm bất thoái, vượt qua 41 nhân vị, một đời thành Phật). 41 nhân vị này chính là Pháp thân Đại sĩ, vẫn chưa đoạn hết tập khí vô thỉ vô minh, cho nên mới nói như vậy. Nhưng mà ở thế giới Tây Phương Cực Lạc chắc chắn quý vị không thấy được, đó là Sơ Trụ Bồ tát, hay Đẳng Giác Bồ tát, quý vị không biết được. Vì trí tuệ, thần thông, đạo lực của họ đều bình đẳng, làm sao quý vị có thể nhận ra được, chỉ có Phật mới nhận ra được thôi.

“Như Yếu Giải vân: “Ngũ nghịch, Thập ác” (Như sách Yếu giải nói: Ngũ nghịch, Thập ác). Đây là tội nghiệp phải đọa vào địa ngục A Tỳ, “Thập niệm thành tựu đới nghiệp vãng sinh” (Mười niệm thành tựu, sẽ đới nghiệp vãng sinh). Đối với những người tạo tội nghiệp này, chúng ta có dám xem thường không? Không dám! Người này khi lâm chung gặp được bạn lành, khuyên họ niệm Phật cầu vãng sinh, nếu người này ngay đó giác ngộ, nhất niệm hồi đầu, đoạn ác tu thiện, mười tiếng niệm Phật là tu thiện, người này chắc chắn được vãng sinh. Trong 48 nguyện Phật A Di Đà nói, “Duy trừ Ngũ nghịch, Thập ác” (Chỉ trừ tội Ngũ nghịch, Thập ác). Vì sao vậy? Vì người này không tin, không tin thì không thể cứu được.

Ngũ nghịch, Thập ác nếu như có đầy đủ Tín-Hạnh- Nguyện, thì vẫn thành tựu được. Vì thế, sau đó Ngài nói rất rõ ràng, nếu người đó không tin thì không có cách nào, không thể quay đầu được. Người tạo Ngũ nghịch, Thập ác khi lâm chung, có thể tin được là đã quay đầu rồi. Có thể quay đầu là có thể vãng sinh. Quý vị nghĩ xem, chuyện này có dễ không, thật sự không thể nghĩ bàn.

Đới nghiệp vãng sinh, “Cư hạ hạ phẩm giả giai đắc tam bất thoái” (Người ở hạ hạ phẩm, đều được Tam Bất thoái). Câu này rất quan trọng. Phàm Thánh Đồng Cư Độ, hạ hạ phẩm vãng sinh, cũng được Tam Bất thoái, cho nên người này là Bồ tát A Duy Việt Trí.

Lại “liễu thử” (hiểu rõ), đây là trong Yếu Giải nói, “phương năng thâm tín Di Đà nguyện lực” (mới có thể tin sâu nguyện lực của Phật A Di Đà). Câu này phải nhớ lấy. Tin sâu, không nghi ngờ nguyện lực của Phật A Di Đà chút nào.

“Tín Phật lực phương năng thâm tín danh hiệu công đức” (Tin Phật lực, mới có thể tin sâu Công đức danh hiệu). Chúng ta niệm Phật, mọi người đều niệm Phật, nhưng công phu niệm Phật không giống nhau, hiệu quả không giống nhau, công đức không giống nhau. Vì sao vậy? Hoàn toàn nhìn vào tín lực của quý vị. Quý vị có một phần thành tín, sẽ có một phần công đức niệm Phật. Có mười phần thành kính, công đức niệm Phật của quý vị chắc chắn có mười phần, làm sao mà giống nhau được?

Tin sâu đối với Công đức danh hiệu của chúng ta từ đâu mà có? Từ việc nghiên cứu kinh giáo. Đối với kinh giáo, quý vị càng thấu triệt, thì tín nguyện của quý vị càng kiên cố. Nếu không, lòng tin rất mong manh, có thể nói chỉ trồng một chút thiện căn trong A Lại Da thức mà thôi, không có tác dụng gì. Người khác nói với họ, pháp môn này tốt, pháp môn kia hay, là họ dao động, họ sẽ đổi sang tin pháp môn khác, học kinh giáo khác. Điều này, chư Tổ thường dạy, gọi đó là “lộ thủy đạo tâm” (đạo tâm như hạt sương). Mặt trời vừa mọc là giọt sương không còn nữa. Chính vì vậy, người niệm Phật nhiều, vãng sinh thì ít. Vì sao? Vì tín nguyện không kiên cố, không thâm sâu. Lý là như vậy.

Do đó, đối với việc học tập kinh giáo là quan trọng hơn hết, đặc biệt là từ thời nay trở đi. Không nói đâu xa, 60 năm trước, những người trước thời chúng tôi, không học qua kinh giáo, chuyên dạy họ niệm một câu A Di Đà Phật, những người đó thật thà, nghe lời, làm thật tình, vãng sinh được. Cả đời không nghe qua kinh giáo, ngày đó cơ hội được nghe kinh không dễ dàng, không phương tiện như ngày nay, một câu danh hiệu Phật niệm thành công. Giống như cư sĩ Lưu Tố Vân, cô không có sở trường, chỉ chân thật nói với người khác, sở trường của cô ấy chỉ có 6 từ: “Thật thà, nghe lời, làm thiệt”, nhưng mà cô ấy vẫn còn nghe kinh, nuôi dưỡng thiện căn phúc đức của mình sâu dày.

Vì là người thời hiện đại, có đầy đủ phương tiện khoa học, cô ấy có được đĩa kinh Vô Lượng Thọ, chắc là đĩa của tôi giảng ở Singapore ngày xưa, sau đó được phổ biến ở Trung Quốc. Bộ đó có 60 đĩa. Khi đó, tôi đã ở Singapore một tháng, một ngày giảng 2 tiếng đồng hồ; 60 giờ đồng hồ là giảng xong kinh Vô Lượng Thọ. Chú giải mà tôi dùng là chú thích của Lý Bính Nam lão cư sĩ. Tôi đã dùng cuốn đó, khi đó vẫn chưa được tiếp xúc với Hoàng lão cư sĩ. Mỗi đĩa là một giờ đồng hồ, Ngày xưa, thâu, chỉ băng cát-xét, sau này mới chuyển thành đĩa.

Cô ấy nói với tôi, mỗi ngày cô ấy nghe một đĩa, một giờ đồng hồ. Một đĩa cô ấy nghe đến 10 lần. Qua ngày thứ hai, thì đổi đĩa khác. 60 ngày, thì nghe hết bộ kinh này. Sau khi nghe xong lại nghe lại từ đầu, cô ấy đã làm được “nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu”. Vì thế, đối với bộ kinh này, cô ấy rất rành. Tín nguyện đã như thế mà trấn định được, cô ấy không hề có tơ hào hoài nghi. Người chân thật, nghe lời, làm thiệt, cô ấy đã thành công! Mọi người nghe cô ấy giảng đều khen cô ấy giảng hay. Cổ nhân thường dạy “thục năng sinh xảo”. Thành thục rồi, thì biến thành tinh xảo của mình thôi. Do đó, cô ấy giảng kinh dạy học, thành tựu được vẫn là trong phương pháp truyền thống xưa kia, chính là trùng tuyên lại, chứ không có cách nào khác.

Quý vị nghe một bộ kinh từ đầu đến cuối 10 lần. Cô ấy rất khéo léo, 10 lần của cô ấy, không phải là từ đầu đến cuối nghe 10 lần, mà là mỗi đĩa nghe 10 lần, cũng là sau mươi ngày, 10 lần đầy đủ. Sức mạnh này lớn lắm, mỗi ngày một đĩa, nghe lại 10 lần, so với mỗi ngày nghe 10 đĩa, 6 ngày nghe một lần, hiệu quả tốt hơn nhiều. Quý vị đều có thể thực nghiệm thử xem sao. Quý vị sẽ hiểu được, phương pháp dạy học của cổ thánh tiên hiền, phương pháp xem ra rất ngốc, nhưng thật sự đạt hiệu quả, không để cho quý vị khởi vọng tưởng.

Thành thục rồi là của chính mình. Đến khi mình có chỗ lãnh ngô,̣ thì mới có thể phát huy được oai thần gia trì của Tam bảo. Sau khi phát huy xong thì thế nào? Bản thân mình cũng không biết là giảng cái gì, như vậy là đúng rồi. Nếu có thành kiến ở trong đó, sẽ nhớ ra đã nói những gì. Khi Phật lực gia trì, thì quý vị sẽ không nghĩ ra, sau khi giảng xong, trong đầu quý vị không có gì. Hỏi quý vị vừa giảng gì vậy? Quý vị không biết.

Kinh nghiệm này, phàm các vị pháp sư lên tòa giảng kinh đều có. Đến Hàn lão pháp sư, là pháp sư một đời giảng kinh cũng có tâm trạng như thế. Ngài giảng kinh Viên Giác. Có mấy vị cư sĩ già, đều là những người rất nổi tiếng vào năm Dân Quốc đầu tiên, nghe Ngài giảng kinh, ghi chép lại. Sau khi chép xong, mỗi lần giảng kinh hoàn tất, cư sĩ Giang Vị Nông ghi chép cho Ngài, đưa cho Ngài coi. Ngài coi xong bèn hỏi Giang cư sĩ: “Cái này tôi giảng hả”? Ông ấy nói “vâng”. “Sao tôi giảng được hay quá vậy”? Ngài không hề biết.

Trên pháp tòa, Tam bảo gia trì, không phải mình nghĩ, mình giảng thế nào, không phải đâu, không hề chuẩn bị, đến khi đó tự mình giảng được, là Phật lực gia trì đó. Phàm những vị thường ở trên pháp tòa giảng kinh đều có kinh nghiệm này. Vì thế, trước khi giảng kinh phải thỉnh cầu Tam bảo gia hộ; sau khi giảng kinh xong phải biết cảm ơn. Tu cái gì? Tu khiêm hạ, tu lễ kính. Tín trì danh, mới có thể Tin sâu. Tâm tính con người ta vốn chẳng thể nghĩ bàn vậy.

Tâm tính của chúng ta, trên pháp tòa một niệm chân thành, thì sẽ thông với chư Phật, Bồ tát, cho nên tin tức đó, tự nhiên truyền đến. Danh từ trong Phật pháp gọi đó là “pháp nhĩ như thị”. Pháp vốn là như vậy. Đó là quý vị có cảm. Quý vị nói, quý vị không cầu. Đây gọi là minh cảm (ngầm cảm), chính bản thân quý vị không hề hay biết. Một chút chân thành đó của quý vị, một chút phụng hiến vô tư, một chút nguyện vọng đó, nguyện hết thảy chúng sinh phá mê khai ngộ, chính bản thân quý vị còn chưa cảm nhận được, nhưng chư Phật, Bồ tát đã nhận được điện tín rồi. Lúc đó, các Ngài sẽ ngầm hiển hiện gia hộ cho quý vị. Tâm tính chẳng thể nghĩ bàn. Tâm tính đồng với chư Phật, Bồ tát.

“Lại nữa, nhân duyên bất thoái ở Cực Lạc có năm”. Đây đều là trong sách Yếu Giải, Ngẫu Ích Đại sư giảng:

“Thứ nhất, “Vì nhờ Di Đà đại bi nguyện lực nhiếp trì, nên bất thoái”. Tâm từ bi của Phật A Di Đà, nguyện lực nhiếp thụ hết thảy chúng sinh, bình đẳng nhiếp thụ, phổ biến nhiếp thụ, vĩnh hằng nhiếp thụ không gián đoạn. Chúng ta thật sự được nhiếp thụ, nhưng không cảm nhận được. Vì sao? Vì tập khí phiền não quá sâu dày làm chướng ngại. Nếu như tập khí phiền não mỏng một chút, sẽ cảm nhận được.

Thứ hai “Vì Phật quang thường chiếu, Bồ đề tâm tăng tiến, nên bất thoái”. Đó là Phật lực gia trì quý vị, đến thế giới Cực Lạc quá rõ ràng. Phật quang chiếu đến, chắc hẳn nâng đạo hạnh và công lực của quý vị lên.

Thứ ba, “Nước, chim, cây cối đều diễn nói diệu pháp, tăng trưởng chính niệm, nên bất thoái”. Điểm này quý vị đều biết, trong kinh đức Phật giảng rất rõ, ở thế giới Cực Lạc, nước, chim, cây cối, hoa cỏ đều diễn nói pháp. Đó đều do thần thông của đức Phật A Di Đà biến hóa ra, cho nên quý vị sẽ không thoái chuyển.

Thứ tư, “Chư Bồ tát đều là bạn hữu, ngoài không có tà ma, trong không có phiền não, cho nên bất thoái”. Cực Lạc thế giới thù thắng không gì bằng. Chư Bồ tát là ai? Là 41 vị Pháp thân Đại sĩ. Quý vị nên nhớ câu này trong kinh: Tuy là hạ hạ phẩm vãng sinh, nhưng về Phàm Thánh Đồng Cư Độ, đều là Bồ tát A Duy Việt Trí, là Sơ Trụ của Viên Giáo, là Sơ Địa của Biệt Giáo, đều là Pháp thân Đại sĩ, cũng chính là phá một phẩm Vô minh, chứng một phần Pháp thân.

Đến thế giới Cực Lạc đã phá vô minh chưa? Chưa phá, cũng chưa chứng được Pháp thân, nhưng mà bản nguyện oai thần của Phật A Di Đà gia trì cho quý vị. Quý vị ở thế giới Tây Phương Cực Lạc hưởng thụ, thọ dụng, hoàn toàn giống như Pháp thân Bồ tát, trí tuệ bình đẳng, thần thông bình đẳng, đạo lực bình đẳng, không có cái gì là chẳng bình đẳng. Đó là bản nguyện oai thần của Phật Di Đà gia trì.

Nói cách khác, sinh về thế giới đó, giống như thế giới Thật Báo Trang Nghiêm Độ của mười phương chư Phật không hề sai khác. Nên nhớ, Đồng Cư Độ và Thật Báo Độ không sai khác. Điều này trong quốc độ của hết thảy chư Phật đều không có, chỉ có thế giới Tây Phương là đặc biệt. Thần thông đạo lực của hết thảy chư Phật Như Lai cùng Phật A Di Đà bình đẳng. Đức Phật A Di Đà hiện ra Tịnh Độ này, vì sao các vị Phật khác không hiện? Chư Phật Như Lai không phải là phàm phu. Phàm phu háo thắng. Anh làm, tôi cũng làm. Anh hiện Cực Lạc, tôi cũng có thể hiện Cực Lạc. Tôi không thua anh đâu. Háo thắng! Chư Phật, Bồ tát không có tập khí này.

Phật A Di Đà hiện ra, được mọi người cùng đi đến đó. Quý vị nghĩ, tâm lượng này có lớn không? Những gì Phật A Di Đà hiện ra, chính là của hết thảy chư Phật thiện, trong đó không có sự phân biệt. Ở bên đó đã có sẵn rồi, mười phương chư Phật tiếp dẫn chúng sinh thành Phật, giáo hóa một thời gian, đi hết, qua hết bên đó, không có mình! Mười pháp giới chính là một pháp giới, quốc độ của hết thảy chư Phật chính là một quốc độ, đâu có giống như chúng ta ở đây phân biệt, chấp trước.

Do vậy, lạc vào phân biệt, chấp trước, tức khắc bị đọa lạc. Cái này không thể không biết. Quý vị xem toàn bộ là Pháp thân Đại sĩ, không có ma vương ngoại đạo, không có tà ma bên ngoài, bên trong thì không có phiền não, không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước, cho nên người này không thoái chuyển.

Thứ năm, “Thọ mạng vĩnh kiếp, cùng Phật tương đồng, nên bất thoái”. Vô lượng thọ, thật sự vô lượng thọ.

Tiếp, đoạn cuối: “Tóm lại, Thánh đức khó lường, ân Phật khó báo, Phật Di Đà tâm bi cùng tột, Thánh trí tuệ không gì sánh bằng, từ đó lưu hiện ở phàm phu đây được dễ dàng sinh Đồng Cư Tịnh Độ, hành giả không cần đoạn hoặc tiêu nghiệp, chỉ cần tín nguyện trì danh, chỉ đến mười niệm, đều được vãng sinh, ra khỏi tam giới, vĩnh viễn lìa khổ, lên Vị Bất thoái, một đời thành Phật, vượt tình lìa kiến, chẳng thể nghĩ bàn”.

Đây là đoạn tổng kết Tông Thú cuối cùng, mỗi câu đều chân thật, không dối. Đúng vậy, nói Thánh đức, chính là đức lớn của Phật A Di Đà, đại ân, đại tuệ, không thể tưởng tượng. Ân của chư Phật, chư Phật giới thiệu, chư Phật đề cử, khiến chúng ta cảm nhận được ân của Phật A Di Đà, ân đức của hết thảy chư Phật.

Hết thảy chư Phật mười phương, không có vị nào không tán thán, đề cử, giới thiệu Phật A Di Đà, khiến cho chúng ta thật sự nhận biết được Phật A Di Đà, biết được pháp môn này, thật khó gặp! Vì vậy, tâm từ bi của Di Đà cao cùng tột đến cực điểm; trí tuệ của Di Đà không gì sánh bằng, không gì có thể so sánh được. Từ ân đức của Ngài, Bi Trí lưu hiện, lưu lộ xuất hiện, khiến cho phàm phu dễ dàng sinh Đồng cư Tịnh Độ, chúng ta mới có thể một đời viên mãn thành tựu.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 49)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 48)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 47)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 257
    • Số lượt truy cập : 8564974