Thông tin

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH GIẢI DIỄN NGHĨA - TẬP 32

 

 

Chủ giảng: LÃO PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG

*****

Trưởng ban biên dịch: TK. Thích Đồng Bổn

QUYỂN 4

(Tập 31-40)

 

TẬP 32

 

Giảng ngày 07 tháng 5 năm 2010 Tại Tịnh Tông Học Viện Úc Châu

Biên dịch: Tử Hà - Biên tập: Bình Minh

 

Chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, xin xem tiếp Đại thừa kinh Vô Lượng Thọ Giải, từ dòng cuối cùng trang 33.

Tóm lại, Thánh đức khó lường, ân Phật khó báo, Phật Di Đà tâm bi cùng tột, Thánh trí tuệ không gì sánh bằng, từ đó lưu hiện ở phàm phu được dễ sinh Đồng Cư Tịnh Độ. Hành giả không cần đoạn hoặc tiêu nghiệp, chỉ cần tín nguyện trì danh, dưới đến mười niệm, đều được vãng sinh, ra khỏi tam giới, vĩnh viễn lìa khổ, lên Vị Bất thoái, một đời thành Phật, vượt tình lìa kiến, chẳng thể nghĩ bàn”.

Đoạn này rất quan trọng, khiến chúng ta có đầy đủ niềm tin đối với pháp môn Niệm Phật vãng sinh, đặc biệt là nói đến, “không cần đoạn hoặc tiêu nghiệp, chỉ cần Tín-Nguyện- Trì danh, cho đến mười niệm, đều được vãng sinh”. Mấy câu này quan trọng lắm!

Đoạn trước, chúng ta xem Hoàng lão, dẫn chứng trong Yếu Giải của Ngẫu Ích Đại sư có mấy câu. Ngài nói: “Ngũ nghịch, Thập ác, thập niệm thành tựu, đôi nghiệp vãng sinh, người ở hạ hạ phẩm, đều được Ba bất thoái”.

Nguyện thứ 18 trong kinh Vô Lượng Thọ, có nói: “Cho đến mười niệm, nếu không vãng sinh, không thủ Chính giác”. Đó là Phật A Di Đà phát nguyện, các vị Tổ sư hoàn toàn theo nguyện này mà giảng, nhưng phía sau có câu: “Duy trừ ngũ nghịch, hủy báng chính pháp”. Nói cách khác, tạo Ngũ nghịch, Thập ác, khi lâm chung chỉ cần có niềm tin chính pháp, không còn hoài nghi, không còn hủy báng, mười niệm là được vãng sinh.

Tình trạng này, chúng tôi đã tận mắt chứng kiến. Lúc trước, khi tôi ở Mỹ, có gặp một người, bây giờ tính ra xem như là học trò của tôi, người này thật sự vãng sinh. Châu Quảng Đại tiên sinh ở Hoa Thịnh Đốn D.C, suốt đời không tín ngưỡng tôn giáo, không tin bất cứ tôn giáo nào. Ông ta mở cửa hàng bánh mì bên đó, người trung hậu lão thành, không hề tiếp xúc qua tôn giáo. Sau này, ông bị ung thư, khi sắp lâm chung, người trong nhà đều bó tay cả, nên tìm đến hội Phật giáo của chúng tôi, Hội Phật Giáo Hoa Phủ.

Khi đó, tôi đang làm hội trưởng ở đó. Tôi và mấy người học trò đi đến nhà ông ấy xem. Thấy ông ấy thật sự không cứu được nữa, tôi khuyên ông ta cầu vãng sinh. Nói cho ông ấy biết, thế gian này rất khổ, không có gì đáng lưu luyến và nói cho ông ấy biết phong cảnh ở thế giới Tây Phương Cực Lạc. Ông ấy nghe rất vui mừng, bèn nói với người thân rằng, đừng đi cầu thầy thuốc, đừng mong ông ta hết bệnh, hết thảy niệm Phật A Di Đà, giúp ông ấy cầu vãng sinh.

Thời gian có 3 ngày thôi, ông ấy thật sự được vãng sinh, điềm tốt hy hữu. Khi đó, mọi người đứng bên cạnh đều được tận mắt chứng kiến, đã nói lại tình hình đó cho tôi biết. Từ trong hiện tượng này, chúng ta có thể quan sát được, khi ông ấy sắp lâm chung, đầu óc sáng suốt, không mơ hồ. Đó là điều kiện thứ nhất. Nếu như mê hoặc điên đảo, thì thật là khó nói. Đây là phúc báo. Khi lâm chung, rõ ràng minh bạch, bản thân mình lựa chọn nên đi về đâu, ông ta có năng lực này.

Điều kiện thứ hai, là gặp được thiện hữu giúp đỡ, khuyên ông ấy cầu sinh về thế giới Tây Phương Cực Lạc.

Thứ ba, ông ấy vừa nghe là tin nhận liền. Ông ấy lý giải, ông ấy làm được, nên ông đã thành công.

Điều này không dễ đâu. Trong hàng ngàn vạn người mới có được một người. Tuyệt đối không phải là may mắn. Vì thế, đức Phật A Di Đà đã tạo dựng Đồng cư Tịnh Độ ở thế giới Cực Lạc, đúng là khó được, đáng quý!

Đồng cư Tịnh Độ không khác Thật báo Tịnh Độ, thật sự là pháp khó tin! Không cần đoạn hoặc, cũng không cần tiêu nghiệp, chỉ cần Tín-Nguyện-Trì danh. 3 điều kiện: Tín- Nguyện-Hạnh. Trì danh là hành, thật sự tin, thật sự phát nguyện, thật sự làm. Dưới đến mười niệm, đó là bệnh rất nặng, mười niệm cuối cùng là ngừng thở, cũng được vãng sinh. Ra Tam giới theo chiều tắt ngang (hoành xuất), không ra theo chiều dọc lên (thụ xuất). Thụ xuất, đừng nói vãng sinh về thế giới Cực Lạc, sinh về cõi Trời Dục giới, cũng không dễ đâu, rất khó khăn. Phải có đầy đủ thượng phẩm. Thập thiện, mới được sinh về cõi Trời Dục giới, vĩnh viễn thoát ly lục đạo luân hồi trong Tam giới.

Vãng sinh về thế giới Cực Lạc, không còn lục đạo nữa. Bên đó tuy là Đồng Cư Độ, nhưng không có tam ác đạo, không có A Tu La. Đồng cư Tịnh Độ ở thế giới Tây Phương Cực Lạc, chỉ có 2 nẻo (đạo) là Trời và Người. Chúng sinh trong 2 nẻo này, đều là các bậc thượng thiện căn. Vì thế, sinh về bên đó, được bản nguyện oai thần của Phật A Di Đà gia hộ, đều làm Bồ tát A Duy Việt Trí, đều được bất thoái.

Bất thoái ở đây, là đầy đủ 3 loại bất thoái, quyết định trong một đời, chứng được địa vị Bồ tát Đẳng Giác, Nhất sinh Bổ Xứ, Bồ tát Đẳng Giác.

Pháp môn này cùng với Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, “siêu tình ly kiến, không thể nghĩ bàn”. Siêu là siêu việt; tình là tình chấp, thức thứ 7; kiến là tà kiến, thức thứ 6. Siêu tình ly kiến, là chuyển thức thứ 6 thành Diệu quan sát trí, chuyển Mạt Na thức thành Bình đẳng tính trí, là thành Phật thôi.

Pháp Tướng Tông nói rất hay, “Lục thất nhân thượng chuyển, ngũ bát quả thượng chuyển” (Thức thứ 6, thứ 7 chuyển trên Nhân, 5 thức trước và thức thứ 8 chuyển trên Quả), chuyển A Lại Da thành Đại viên cảnh trí, chuyển 5 thức trước thành Thành sở tác trí. Người này là ai vậy?

Trong kinh Hoa Nghiêm nói đó là Sơ Trụ của Viên Giáo trở lên. Không những siêu việt lục đạo, mà còn siêu việt mười pháp giới, sinh về Thật Báo Trang Nghiêm Độ của chư Phật Như Lai. Nhưng trong kinh này nói cho chúng ta biết, người này sinh về Đồng cư Tịnh Độ. Ở trong Đồng cư Tịnh Độ chờ đợi, trí tuệ, thần thông, đạo lực, giống như Pháp thân Bồ tát ở Thật Báo Độ. “Điều này ở mười phương thế giới không có”, đây là sự thật, không giả dối.

Trong quốc độ của mười phương chư Phật, Phật Thích Ca Mâu Ni không nói như vậy, chỉ có Tây Phương Di Đà Tịnh Độ, là nơi ngàn kinh vạn luận đều tán thán. Cái lý ở chỗ này. Vì sao? Hết thảy chư Phật mười phương đều tán thán, vì nó quá thù thắng, quá viên mãn. Chư Phật mười phương và Phật A Di Đà, các vị nên biết đều là bình đẳng, trí tuệ bình đẳng, đức năng bình đẳng, tướng hảo bình đẳng.

Phật Phật đạo đồng, không hề có chút sai biệt. Phật A Di Đà, đã kiến lập một cõi Tịnh Độ thù thắng ở Tây Phương, các vị Phật khác cũng nói, chúng ta cũng tạo dựng một cái đi. Được không nào? Được! Chẳng phải là không được. Vì sao chư Phật Như Lai lại không phát tâm như vậy? Phật A Di Đà tạo dựng Tịnh Độ rất đẹp, các người qua đó đi! Nghĩa là sao vậy? Hàm ý trong này rất thâm sâu, nói lên rằng chư Phật Như Lai đã đoạn trừ sạch tập khí phiền não.

Ngày nay, chúng ta ở trong giáo pháp Đại thừa học nhiều năm như thế, chứng ngộ tuy không có, nhưng cũng có một chút giải ngộ. Chúng ta lý giải, chúng ta hiểu. Hiểu cách nào đây? Không phải là khai ngộ, kinh giáo học nhiều, nghe Thế Tôn nói, nghe Bồ tát nói, nghe chư Tổ sư giảng như vậy, chúng ta hiểu được từ trong đó, Kiến Tư phiền não hoàn toàn đoạn hết.

Phật Phật chẳng những đạo đồng, Phật Phật còn là nhất thể. Di Đà tạo Cực Lạc rồi, chúng ta đem hết những chúng sinh chưa được độ này, đưa về thế giới Cực Lạc, đó chẳng phải là chuyện tốt sao? Vì thế, hết thảy chư Phật Như Lai mười phương ba đời, đều biến thành tuyên truyền viên cho thế giới Tây Phương Cực Lạc, đều giúp cho Phật A Di Đà đi chiêu sinh, đi giới thiệu, đi bảo lãnh, làm những việc đó. Phật Thích Ca Mâu Ni cũng như vậy, đem sự thù thắng vi diệu này nói cho chúng ta biết, khuyên chúng ta niệm Phật cầu sinh về thế giới Tây Phương Cực Lạc, quy y với Phật A Di Đà, làm đệ tử Phật A Di Đà.

Ngài không đố kỵ, không làm chướng ngại, chẳng những không đố kỵ chướng ngại, mà còn thành tựu cho quý vị. Quý vị nghĩ thử xem, ý này có sâu không. Ý này vi diệu quá, đã dạy cho chúng ta. Vì sao? Vì đố kỵ chướng ngại là phiền não vô cùng nghiêm trọng. Người nào không có? Ai cũng có! Những phiền não này sinh ra là đã có rồi. Nếu quý vị nói quý vị không đố kỵ, thì quý vị đã thành Pháp thân Bồ tát.

A La Hán, và Quyền Giáo Bồ tát, tuy không có đố kỵ, nhưng có tập khí đố kỵ. Hành vi đố kỵ không có, nhưng tập khí vẫn còn. Cống cao ngã mạn, tập khí tật đố đều đoạn trừ hết, là ai vậy? Là Pháp thân Bồ tát, Sơ Trụ của Viên Giáo, Sơ Địa của Biệt Giáo. Khi đó, tập khí phân biệt chấp trước đều đoạn tận, sinh về Thật Báo Trang Nghiêm Độ, tập khí vô minh vẫn còn, đây chính là 41 giai cấp trong Thật Báo Độ.

Quý vị nên biết rằng, trong đây chắc chắn không có tập khí Kiến Tư hoặc, chắc chắn không có tập khí Trần Sa hoặc, chỉ có tập khí Vô minh, cái đó không quan trọng, không ngại gì. Nên biết, đố kỵ, kiêu mạn, tập khí này chướng ngại, nó tạo nghiệp. Quả báo chiêu cảm là tam đồ, cho nên rất đáng sợ. Sự biểu diễn của chư Phật Như Lai như thế, khiến cho chúng ta thật sự thấy nhất thể; khắp cả vũ trụ này là nhất thể, ai làm cũng vậy thôi!

Người khác làm cũng vất vả, cũng mệt mỏi vậy, chúng ta đứng bên tùy hỷ tán thán, tùy hỷ công đức, quý vị xem tự tại biết bao nhiêu. Không cần phải vất vả, công đức vẫn bằng nhau. Vì sao bằng nhau? Mình người không hai; chúng sinh và Phật không hai. A Di Đà Phật tự tính Di Đà. Nghiệp báo thân của chúng ta ngày nay, là tự tính nghiệp báo, không xa rời tự tính, là một chẳng phải hai.

Di Đà làm và chúng ta làm, có gì khác đâu! Lý này chẳng thể không hiểu. Không hiểu, quý vị vẫn tạo nghiệp. Vì vậy, trong kinh Địa Tạng nói rất hay: “Chúng sinh trong cõi Diêm Phù Đề, khởi tâm động niệm, đều là nghiệp”. Nói khó nghe một chút, “đều là tội”. Quý vị tạo tác là tội; không tạo tác, khởi tâm động niệm cũng là tội. Đó là niệm gì vậy? Niệm đó là tập khí phiền não, là tham, sân, si, mạn, là tật đố chướng ngại, những tập khí này vẫn còn.

Nếu không phải chân tu tập, tập khí hiện hành, thì quả báo cũng hiện hành. Chân tu tập nghĩa là sao? Trong cuộc sống hàng ngày, những tập khí bất thiện này trừ bỏ hết. Thiện Tài đồng tử biểu diễn cho chúng ta sự từng trải luyện tâm. Sự, là những chuyện thế tục. Quý vị ở nơi này rèn luyện, luyện cho chân tâm của quý vị hiện ra, thật sự buông bỏ hết tập khí phiền não. Tập khí phiền não sa thải hết, Chân tính của quý vị sẽ xuất hiện. Trong Chân tính có đầy đủ vô lượng vô biên đức tướng, trí tuệ. Cái này quý vị vốn sẵn có, quý vị không hề bị đánh mất, hiện tại chỉ là mê lầm mà thôi.

Chư Phật, Bồ tát đại từ đại bi, đã nhắc nhở chúng ta, còn giúp cho chúng ta phục hồi, cho nên Niệm công giảng ở chỗ này rất đúng: “Thánh đức khó lường, Phật ân khó báo”. Báo đáp cách nào? Y giáo tu hành, chính là chân thật báo ân. Quý vị không chịu chân tu, tính trần còn nguyên, ngày nay không thật tu, thì thật là ghê sợ! Tôi lo sợ! Tôi hoảng hốt! Vì sao vậy? Bây giờ, tôi mới thật sự hiểu rõ, có rất nhiều người đang làm ba thời hệ niệm Phật sự, làm lễ siêu độ, thậm chí đả Phật thất, trong sớ đều dùng Pháp sư Tịnh Không làm pháp chủ. Nếu như tôi không dụng công tu tập, món nợ này thật ghê sợ!

Nếu những chúng sinh đó không được độ, thì món nợ này đểu tính trên đầu tôi. Tôi thấy cái này rất lo, chỉ có dụng công tu tập, đem công đức tu học hồi hướng cho họ, hồi hướng cho hết thảy chúng sinh, âm dương đều lợi. Bây giờ, tôi biết được, mỗi lần quý vị làm Phật sự, đều đem áp lực cho tôi. Áp lực này cũng tốt, ép buộc tôi không thể không thật tu, toàn tâm toàn lực tu hành. Vãng sinh Đồng cư, chính là hoành sinh ba độ còn lại. Những gì trong kinh Hoa Nghiêm nói, đều nhìn thấy hết ở thế giới Tây Phương Cực Lạc, cho nên kinh Hoa Nghiêm, người xưa gọi là Đại Bản Vô Lượng Thọ Kinh, có nghĩa là giảng kỹ kinh Vô Lượng Thọ chính là Hoa Nghiêm.

Lần này, chúng ta dùng thời gian dài một chút, giảng kỹ Tịnh độ Đại Kinh Giải, cũng là đồng đẳng Hoa Nghiêm. Bộ kinh này giảng xong rồi, thì Hoa Nghiêm có thể lược thuyết, không cần giảng kỹ. Vì sao vậy? Vì bộ kinh này đã giảng kỹ rồi, đây là một chẳng phải hai. Bốn độ, một tức là bốn, bốn tức là một, nhìn thấy ở thế giới Cực Lạc.

Chứng Vị bất thoái, cũng tức là Viên (trọn vẹn) chứng Ba bất thoái. Các vị nên biết, chứng Ba bất thoái là Bồ tát Sơ Trụ của Viên Giáo. Vị bất thoái, Hành bất thoái, Niệm bất thoái đều chứng được, nhưng không thể nói là Viên (trọn vẹn). Thêm vào một từ Viên, địa vị này cao rồi.

Trong chú sớ của người xưa cho chúng ta biết, Viên chứng Ba bất thoái là cấp bậc nào? Thất Địa trở lên, mới có thể gọi là Viên chứng Ba bất thoái. Đây là bản nghiệm thân của Phật A Di Đà gia hộ. Thật sự không thể nghĩ bàn.

Bạc địa phàm phụ lâm chung mười niệm vãng sinh, sinh về Phàm Thánh Đồng Cư Độ hạ hạ phẩm, đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, cũng có thể Viên chứng Ba bất thoái. Có nghĩa là đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, quyền lợi hưởng thụ là Bồ tát Thất Địa trở lên.

Làm sao tin được? Thế gian này cũng có trường hợp như vậy, từ đó chúng ta suy nghĩ có thể hiểu được lý này. Ví như người đến đầu thai ở thế gian, nếu như linh thể này chọn vào nhà của Đế vương, đầu thai sinh ra nó chính là Thái tử, quyền lợi hưởng thụ của nó còn hơn các vị đại thần, thậm chí còn hơn cả Tể tướng. Quý vị có tin được không? Quyền lợi đó tuyệt đối không phải trí tuệ năng lực của nó làm ra, mà là phụ vương cho nó.

Chúng ta vãng sinh về thế giới Tây Phương Cực Lạc, cũng giống như ví dụ này vậy. Chúng ta chọn về thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà, làm con của Phật A Di Đà, hưởng thụ trí tuệ, đức năng của Phật A Di Đà, có nghĩa là như vậy. Không phải quyền lợi bình thường, mà là quyền lợi thù thắng!

Hai câu dưới đây rất quan trọng, quý vị chỉ hưởng thụ, không làm tròn nghĩa vụ thì không được. Hai câu dưới đây chính là nghĩa vụ của quý vị. Bắt buộc quý vị phải tương đồng với tâm nguyện của Phật A Di Đà. Nguyện của Phật A Di Đà là 48 nguyện. Tâm của Phật A Di Đà là Niệm niệm phổ lợi quần sinh (Niệm niệm lợi khắp quần sinh) chẳng có niệm nào không cả. Niệm niệm ở đây Bồ tát Di Lặc từng nói, một khảy móng tay có ba trăm hai mươi triệu niệm. Niệm niệm lợi khắp quần sinh. Chúng ta phải có niệm này, niệm niệm không có chính mình.

Tâm tâm lưu nhập biển giác (Tâm tâm chảy vào biển Giác). Trong tâm có gì? Trong tâm là giác, không có một chút mê hoặc. Biển ví cho Tự tính, Tự tính bản giác. Trong Khởi Tín Luận, Mã Minh Bồ tát cho chúng ta biết: “Bản giác bản hữu, bất giác bản vô”. Bất giác là gì? Bất giác là A Lại Da. A Lại Da là vọng tâm, chứ không phải là chân. A Lại Da bất giác. Tự tính bản giác.

Tâm tâm và niệm niệm ý của nó tương đồng. Niệm niệm là khởi dụng của Chân tâm. Tâm tâm là bản thể của Chân tâm. Nói tâm là nói về mặt thể, nói niệm là nói về mặt dụng. Thể là gì? Thể là Đại giác! Trong Bồ để tâm, giác này là tâm tâm chảy vào biển Giác, chính là chân thành. Trong Quán Kinh nói là tâm chí thành. Tâm chí thành chính là biển Giác. Trong Khởi Tín Luận nói là trực tâm. Hình dung trong tâm không hề có chút tướng cong vạy, hoặc là chúng ta nói rõ hơn một chút, không có hiện tượng quanh co, đây là biển Giác.

Một niệm bất giác mà có vô minh, từ trong biển Giác, biến hiện ra A Lại Da. A Lại Da chính là linh hồn, trong pháp giới Tứ thánh gọi là tính linh, trong lục đạo gọi là linh hồn. Linh hồn là mê, tính linh là giác ngộ. Tuy giác ngộ, nhưng không viên mãn.

Người giác ngộ không tạo nghiệp, thiện ác nghiệp đều không tạo. Người mê tạo nghiệp. Tạo thiện nghiệp sinh 3 đường lành. Tạo ác nghiệp sinh 3 đường ác. Những chân tướng sự thật này, chúng ta học Phật đã nhiều năm như thế, hiểu rõ ràng, hiểu minh bạch, phải có một khái niệm rõ ràng.

“Niệm niệm phổ lợi quần sinh. Tâm tâm lưu nhập biển giác”. Đây gọi là chân tu hành, giác mà không mê. Làm thế nào mới có thể làm được? Quý vị xem câu cuối cùng, “Thị vi bản kinh chi thú” (Đó chính là Thú hướng của bản kinh này). Như thế là hiểu rồi, tôn chỉ của bộ kinh này nói về tu tập. Chỗ về của sự tu tập là phổ lợi quần sinh, chảy vào biển lớn. Chúng ta phải làm thế nào đây? Phát Bồ đề tâm, Nhất hướng chuyên niệm. Phát Bồ đề tâm, người xưa nói rất hay, chính là phát tâm làm Phật, tâm thành Phật, phải phát tâm này. Thành Phật nghĩa là sao? Thành Phật là tâm độ chúng sinh.

Nói cách khác, chính là 4 đức mà Hiền Thủ Quốc sư giảng ở trong Hoàn Nguyên Quán, nhất định chúng ta phải thực hành. Thứ nhất là Tùy duyên diệu dụng. Diệu là gì? Diệu là tùy duyên. Trong tùy duyên không có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Đó chính là diệu dụng. Cái này không dễ làm được đâu. Phật, Bồ tát cho chúng ta biết có thứ đệ, cứ làm theo đó đi. Đầu tiên, học tập không chấp trước trong tùy duyên. Học được thật sự thành công, quý vị đã thành Chính giác, quý vị đã chứng được quả A La Hán. Trong kinh Hoa Nghiêm, quý vị chứng được Bồ tát Thất Tín vị trở lên. Thất Tín, bát tín, cửu tín, thập tín đều là giai vị này. Chính giác là hướng lên trên một bước nữa. Chẳng những không chấp trước, mà tâm phân biệt cũng không còn. Các vị nên biết rằng, tâm chấp trước không còn, thì tâm thanh tịnh sẽ xuất hiện. Chấp trước là nhiễm ô, là Mạt Na thức. Nhiễm ô xóa bỏ hết, thì tâm thanh tịnh phục hồi.

Đại sư Huệ Năng có dạy: “Hà kỳ tự tính, bản tự thanh tịnh” (Lạ thay! Tự tính vốn tự thanh tịnh). Tâm thanh tịnh của quý vị hiển lộ rồi, nhưng mà chưa viên mãn. Tâm thanh tịnh sinh trí tuệ. Nếu có thể không phân biệt, tiến thêm một bước không phân biệt, thì quý vị sẽ thành Bồ tát Chính đẳng Chính giác, từ A La Hán thăng cấp, thăng lên Bồ tát. Tiếp tục buông bỏ khởi tâm động niệm, thì quý vị đã thành Vô thượng Chính đẳng Chính giác, thành Phật rồi, đạt đến địa vị tối cao.

Trong kinh Hoa Nghiêm, quý vị là Bồ tát Sơ Trụ của Viên Giáo, siêu việt mười pháp giới. A La Hán siêu việt lục đạo. Phật siêu việt mười pháp giới. Quý vị ở cõi Thật Báo Trang Nghiêm Độ tu hành. Ở trong Thật Báo Độ được gì? Đó là Niệm phổ lợi chúng sinh, đồng thời Tâm tâm lưu nhập biển Giác. 2 câu này không có trước sau, chỉ trong một niệm là đầy đủ. Đây gọi là chân tu. Kinh Hoa Nghiêm tu cái này, kinh Vô Lượng Thọ cũng tu cái này, cho nên cổ đức dạy rằng, kinh Vô Lượng Thọ tức là trung bản Hoa Nghiêm. Lời nói này không sai một chút nào, kinh A Di Đà là tiểu bản Hoa Nghiêm. Hoa Nghiêm có đại, trung, tiểu, 3 bản.

Xem tiếp đoạn bên dưới, “Phươngtiệnlựcdụng”. Chúng ta xem kinh văn, “Như kinh Đại Tỳ Lô Giá Na viết: Bồ đề là nhân, đại bi là gốc, phương tiện là cứu cánh. Cho nên biết, Phương Tiện độ sinh, chính là kết quả đại nguyện của chư Phật, đại trí hiển hiện, vạn đức trang nghiêm, là chỗ quả giác cứu cánh vậy”.

Lực, chính là năng lượng mà chúng ta đang giảng giải. Năng lượng mà hiện nay khoa học nói, đó là lực. Dụng là tác dụng không khởi. Phương là phương pháp. Tiện là tiện nghi. Phương pháp tiện nghi, chính là phương pháp thích đáng nhất, thích hợp nhất, hay nhất. Vì thế, phương tiện không phải chỉ có một, mà là vô lượng vô biên phương tiện. Chư Phật, Bồ tát giáo hoá chúng sinh, gọi đó là phương tiện thánh thông, chẳng phải là một phương pháp.

Trong kinh điển Đại thừa, đức Phật thường dạy: “Phật không có định pháp”. Đó chính là pháp phương tiện. Pháp phương tiện không phải là phương pháp nhất định, tùy người, tùy việc, tùy thời mà biến hóa tha khởi, rất hoạt bát. Người đương thời nói là hoạt học hoạt dụng, là ý này. Nó không phải là pháp chết, cho nên có thể khiến hết thảy chúng sinh tâm sinh hoan hỷ, mới gọi là phương tiện.

Trong kinh nói rất hay, Bồ đề là nhân, Bồ đề là giác. Giác ngộ là nhân. Giác là hiểu rõ. Đối với chân tướng nhân sinh vũ trụ hiểu rõ, đó là nhân. Tuy đã hiểu rõ, nhưng thấy vô số chúng sinh đang chịu khổ chịu nạn, quý vị chẳng hề quan tâm, hoặc giả quan tâm, thì cũng chỉ quan tâm đến những người có duyên, và những người liên quan đến mình, thì hạng người này trong Phật pháp gọi là Tiểu thừa. Họ thường bị chư Phật, Bồ tát la rầy trách mắng, vì có trí tuệ, có năng lực mà không chịu giúp đỡ người khác.

Bồ tát Đại thừa thì khác. Bồ tát Đại thừa có tâm từ bi. Tâm này chính là tâm đồng tình, tâm lân mẫn, hiểu được hết thảy chúng sinh và bản thân mình cùng một thể. Chúng sinh và Phật là một chẳng phải hai, đều có đức tướng, trí tuệ của Như Lai, đồng một tự tính, đồng một trí tuệ, đức năng giống nhau.

Lực, ở đây nói là lực dụng. Trong quả địa của Như Lai Thập lực, Tứ Vô Úy, cũng hoàn toàn tương đồng, cho nên chúng sinh có cảm, chư Phật, Bồ tát lập tức cũng có ứng. Chúng sinh có cảm, Phật, Bồ tát không ứng, không có lý này.

Ngày nay, chúng ta có khổ có nạn. Ngày nào chúng ta cũng cầu Phật, Bồ tát, vì sao Phật, Bồ tát không đến? Phật, Bồ tát có đến, chẳng phải không đến. Đến rồi thì sao? Đến mà quý vị không biết. Phật, Bồ tát đến giúp quý vị mà không giúp được, ở ngay bên cạnh quý vị, vì sao không giúp được? Quý vị có nghiệp chướng, làm chướng ngại sự giúp đỡ của Phật, Bồ tát.

Việc này, khi tôi mới bắt đầu học Phật, năm 26 tuổi, tôi mới tiếp xúc với Phật pháp, và cũng chính năm đó mới quen biết Chương Gia Đại sư. Ông ta rất tốt với tôi, là bậc đại ân đại đức của tôi. Ông nói với tôi: “Phật thị môn trung, hữu cầu tất ứng” (Phật ở trong nhà, có cầu ắt ứng). Nếu như có cầu mà không ứng, thì không phải là Phật, Bồ tát rồi. Số lượng của Phật, Bồ tát nhiều hơn con người. Chúng ta khởi lên một niệm, hết thảy chư Phật, Bồ tát đều cảm ứng được. Chính bản thân chúng ta không thể nhận biết được, là vì nghiệp chướng tập khí của mình quá sâu nặng. Phải làm sao đây? Bắt buộc phải hóa giải hết nghiệp chướng của chính mình, thì Phật, Bồ tát cảm ứng hiện tiền.

Làm cách nào để hoá giải nghiệp chướng? Đại sư dạy tôi, sám trừ nghiệp chướng, nguyện thứ 4 trong 10 nguyện của Phổ Hiền Bồ tát. Mỗi ngày quý vị cần nên sám hối. Sám hối cách nào? Thầy dạy tôi: “Không cần phải học những nghi thức quy củ đó. Chỗ này nói đến phương tiện, những nghi thức đó là làm cho người khác xem, khiến người khác nhìn thấy cảm động, phát khởi người đó quay đầu. Nghĩa là như vậy thôi. Đó là biểu diễn trên khán đài. Thật sự sám hối, không có nghi thức, chỉ có một câu: “Về sau không làm nữa”. Biết ý nghĩ này sai rồi, ngôn ngữ này sai rồi, hành vi này sai rồi, lần sau vĩnh viễn không phạm phải lỗi lầm nào nữa. Đây gọi là chân sám hối.

Tôi nghe xong, bèn nghĩ đây chẳng phải là trong văn hóa truyền thống nói là “bất nhị quá” (không tái phạm) sao? Đúng! Khổng Tử tán thán Nhan Hồi. Trong số học sinh của Khổng Tử, chỉ có Nhan Hồi làm được bất nhị quá. Lỗi lầm chỉ có một lần, ông ấy hiểu, sau này không phạm phải lỗi lầm như vậy nữa. Đạo Nho cũng nói, sử dụng ngôn từ không giống như Phật giáo, nhưng ý nghĩa hoàn toàn tương đồng, cho nên sám trừ nghiệp chướng chính là bất nhị quá, không có bất cứ hình thức nào.

Nói đến siêu độ vong linh, có chuyện như vậy không? Có! Thật sự siêu độ, cũng không có nghi thức. Chúng tôi thấy trong tự truyện của Pháp sư Tán Hư, trong Ảnh Trần Hồi Ức Lục. Khi còn trẻ lão Pháp sư vẫn chưa xuất gia, đến trung niên Ngài mới xuất gia. Cùng người quý vị mở một tiệm thuốc Bắc nhỏ, trong đó có một người bạn họ Lưu, là một Phật tử thuần thành, hàng ngày đọc kinh Lăng Nghiêm, mỗi ngày đọc một bộ, đọc 8 năm, có công phu đấy. Vì thế, siêu độ phải có công phu siêu độ mới được. Không có công phu, lấy gì để siêu độ đây?

Một hôm vào buổi trưa, tiệm không có khách, không có ai đến cửa tiệm mua đồ, Ngài ngồi ngủ gục ở quầy, mơ mơ hồ hồ. Nhìn thấy 2 người đi vào, đi vào cửa tiệm, Ngài bèn ngồi dậy tiếp đón họ. Nhìn kỹ 2 người này là oan thân trái chủ của Ngài. Vì tiền tài tranh chấp mà đi kiện cáo, 2 người này bị thua, phán quyết 2 người thua. Sau khi thua, 2 người này treo cổ tự vẫn. Ngài vô cùng hối hận, không nên vì một chút việc nhỏ bé này mà cướp đi 2 mạng người.

Bây giờ thấy họ đến, Ngài rất lo sợ. Nhưng thấy họ đến với thái độ rất ôn hòa, hình như không có ác ý, trong lòng Ngài hơi bình tĩnh một chút, hỏi họ: Quý vị đến đây có việc gì không? Họ nói đến xin được siêu độ. Nghe thế, Ngài nói: Vậy các ông muốn tôi phải làm thế nào? 2 người nói, chỉ cần ông hứa khả là được rồi. Được, tôi hứa khả! 2 vong hồn này, đập vào đầu gối của Ngài, đập vào vai Ngài, thăng thiên. Dễ dàng như vậy thôi, không hề có nghi thức gì hết.

2 người này đi rồi, không bao lâu lại đến 2 người nữa, là việc của Ngài ngày trước, và con của Ngài, họ đều chết rồi, đến trước mặt Ngài cũng cầu xin siêu độ. Cũng cách đó, Ngài đồng ý, nhìn thấy hai vong hồn này, cũng đập vào đầu gối, đập vào vai mà thăng thiên. Không có công phu thì chẳng xong, công lực này của Ngài chính là 8 năm.

Trong đạo Phật thường nói “nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu”. Lực dụng như thế mà có được, thành tựu được phương tiện lực của Ngài. Quý vị xem, oan thân trái chủ, thân bằng quyến thuộc Ngài đã dùng được, từ ác đạo đưa họ lên thiên đạo, tốt hơn con người rất nhiều. Đây là nói về công lực.

Vì thế, Bồ tát có tâm Đại bi, có phương tiện, có phương tiện mới gọi là cứu cánh. Phương tiện chính là phương pháp thích hợp nhất, đơn giản nhất, ổn định nhất, nhanh chóng nhất. Phương tiện là cứu cánh, nghĩa là sao? Niệm Phật là phương tiện, phát Bồ đề tâm, Nhất hướng chuyên niệm. Nhưng phải nhớ rằng, niệm niệm phổ lợi chúng sinh, không nên vì mình, phạm vi phải lớn. Niệm niệm vì mười pháp giới, khắp pháp giới, hư không giới hết thảy chúng sinh khổ nạn.

Tâm lượng lớn như vậy, có thể làm được không? Làm được! Chỉ cần quý vị dùng tâm chân thành, thì quý vị sẽ làm được. Nếu như trong đây có pha một chút tự tư, tự lợi, pha một chút tập khí phiền não, thì quý vị sẽ không làm được, sẽ phá hoại hết toàn bộ công lực của quý vị, cho nên không được pha một chút nào cả.

Hàng ngày trong cuộc sống, trong công việc, trong tiếp nhân xử thế, tập cái gì? Tập buông bỏ chấp trước, buông bỏ phân biệt. Sự tập luyện đó gọi là chân công phu. Không buông bỏ được, thì phải làm sao? Không buông bỏ được, lập tức quy hướng Phật A Di Đà. Người xưa có dạy: “Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Bất luận là thiện niệm hay ác niệm, không cần để ý tới nó. Vì sao? Thiện niệm hay ác niệm, không phải là chân, mà là vọng niệm. Lập tức chuyển biến thành A Di Đà Phật, đây là chính niệm. Niệm niệm phổ lợi quần sinh, chính là niệm niệm A Di Đà Phật.

Tôi đem công đức niệm A Di Đà Phật, hồi hướng cho hết thảy chúng sinh khổ nạn, cầu chúc cho họ thân tâm khỏe mạnh, gia đình hạnh phúc, sự nghiệp thuận lợi, xã hội an hòa, thiên hạ thái bình! Nên biết rằng, mỗi một niệm đều biến khắp pháp giới hư không giới.

Hiền Thủ Quốc sư có dạy trong Hoàn Nguyên Quán rằng: Mỗi một niệm đều xuất sinh vô tận. Mỗi một niệm đều hàm chứa có, không, chính là tâm bao thái hư, lượng châu sa giới. Loại tâm niệm này, mới gọi là Bồ tát Đại thừa.

“Tùy duyên diệu dụng”, đó là nguyên tắc tối cao. “Oai nghi hữu tắc”, là mô phạm phải làm bây giờ; không phải vì mình, là làm mô phạm tốt cho toàn thể xã hội. Phàm những gì không tốt, quyết định không làm.

Khởi tâm động niệm, tự mình nghĩ xem, tâm niệm này của mình có được hay không. Nếu như cả xã hội này đều giống như tâm niệm này của mình, thế giới này sẽ như thế nào đây? Nên suy nghĩ, nếu là tự tư, tự lợi, nếu là tham, sân, si, mạn, như thế có được không? Thế giới này sẽ bị hủy diệt mất.

Vì sao lại có tâm niệm này? Mê hoặc! Khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác, đều phải làm mẫu mực hay nhất, làm gương mẫu cho xã hội, thế thì nhất định phải học theo sách Đệ Tử Quy, làm được Cảm ứng Thiên, làm được Thập Thiện Nghiệp, học kỹ Sa Di Luật Nghi. Đây là cơ bản nhất. Hết thảy những điều này đều làm được, đó là mẫu mực hay.

Chúng ta chúc phúc cho hết thảy chúng sinh khổ nạn, đó không phải là miệng kêu, mà thật sự có thể thực hiện. Tiếp nhân xử thế, thái độ của Phật giáo chúng ta là “nhu hòa chất trực”. Bất luận là đối với ai, ngôn ngữ phải nhu hòa, thái độ nên thành kính. Chất trực là chân thành cung kính. Mình phải nên học khiêm tốn hữu lễ. Phải khẳng định thế gian không có người xấu, tâm niệm này vô cùng quan trọng. Tâm này chính là tâm đồng thể Đại bi. Người kia tạo tội Ngũ nghịch, Thập ác, là nhất thời mê hoặc, chẳng phải chân tâm, là vọng tâm của người đó. Do tập khí bất thiện tạo thành, chứ chân tâm của họ vốn thiện.

Người này có tâm Bồ đề. Tâm Bồ đề là chân tâm của họ vẫn chưa hiển lộ, bị phiền não tập khí che mất. Chỉ cần bỏ đi hết chướng ngại, thì chân tâm vốn thiện sẽ hiện tiền. Người này là tâm Phật, tính Phật. Hết thảy chúng sinh đều có đức tướng, trí tuệ của Như Lai. Cái này chẳng thể không biết. Nếu quý vị thật sự hiểu, thì quý vị sẽ không có oan thân trái chủ. Oan thân trái chủ biến hết thành Phật, Bồ tát. Tuy họ vẫn chưa có thể biến ra được, nhưng mà trong tâm mình đã thay đổi rồi. Quý vị nghĩ xem, tâm của chúng ta có dễ chịu không, tâm của chúng ta có đẹp không?

Trong kinh, Phật thường dạy chúng ta: “Hết thảy pháp từ tâm tưởng sinh”. Hoàn cảnh mà chúng ta thọ dụng có đẹp không? Có liên quan gì đến người khác không? Không liên quan gì. Nếu như có liên quan, thì hoàn cảnh của chư Phật, Bồ tát sẽ không tốt nữa. Vì sao chư Phật Như Lai vĩnh viễn ở Thật Báo Độ? Có sống cùng chúng ta, thì các Ngài vẫn ở Thật Báo Độ, chắc chắn không bị mười pháp giới, lục đạo làm ảnh hưởng, thế mới được gọi là Đại tự tại, thế mới gọi là chứng đại thần thông. Vì vậy, các Ngài đầy đủ vô lượng thần thông phương tiện để giáo hóa chúng sinh.

Đức thứ tư là “Thay chúng sinh khổ”. Đặc biệt là vào thời đạ̣i ngày nay, chúng sinh mê muội quá nặng, thời gian mê muội dài, chúng ta sống với họ hòa quang đồng trần.

Khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, từ 19 tuổi xuất gia, đến 79 tuổi viên tịch, thời gian 60 trụ thế, dùng phương pháp gì? Khổ hạnh tăng! Thị hiện làm khổ hạnh tăng, một ngày một bữa, ở dưới gốc cây, ba y một bát, 12 năm cầu học, 49 năm dạy học. Đây là thay chúng sinh khổ. Làm như vậy, cho mọi người xem. Thật sự buông bỏ. Danh văn, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần đều buông bỏ hết, không hề dính mắc. Ngài đã làm được rồi, cho nên Ngài dạy chúng ta. Chính bản thân chúng ta tự biết thể lực chưa được, phương pháp sinh hoạt của Ngài chúng ta không làm được, chúng ta phải nên sinh lòng hổ thẹn.

Nhu cầu cuộc sống không nên quá nhiều. Quá nhiều thì làm sao xứng đáng với đức Phật đây. Chúng ta có nghĩ đến việc thay chúng sinh khổ không? Sự biểu diễn một đời của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, lúc sắp lâm chung vẫn còn thuyết pháp cho chúng sinh, vẫn còn nhắc nhở người đời sau.

Hiểu ân, thì mới thật sự biết được báo ân. Không biết ân, thì không biết báo ân. Báo cách nào đây? Y giáo phụng hành.

Quả giác, vô thỉ vô minh đoạn tận, chứng được quả báo cứu cánh viên mãn, trong kinh Hoa Nghiêm gọi là Diệu Giác Vị. Thành tựu địa vị này, thì được đại viên mãn. Sau khi viên mãn, thì hoàn toàn đi giúp chúng sinh quay đầu, giúp cho chúng sinh chứng được đại viên mãn giống như mình vậy. Đây gọi là cứu cánh xứ.

“Cho nên kế tiếp phần sau của Thể Tính Tông Thú, là luận về đại lực đại dụng phương tiện thắng diệu, của kinh này”. Đây là nêu lý do của chương này, đầu tiên giải nghĩa về hàm ý của danh từ “phương tiện lực dụng”. Tiếp tục xem đến lực dụng của kinh này. Như trong kinh Quán Phật Tam Muội, có ghi: “Phật bảo phụ vương, chư Phật xuất thế có 3 lợi ích. Một là, miệng thuyết 12 bộ kinh, pháp thí lợi ích, có thể trừ vô minh ám cấu của chúng sinh, mở trí tuệ nhãn, sinh trước chư Phật, sớm đắc Vô thượng Bồ đề.

Đức Phật đến thế gian, xuất hiện ở thế gian, cho con người ở thế gian 3 điều lợi ích thù thắng. Lợi ích thứ nhất là gì? Là dạy học. Ngôn giáo, thân hành ngôn giáo. Thân phải làm mẫu mực. Làm mẫu mực cho chúng sinh coi. Dùng ngôn ngữ giáo hóa chúng sinh, nói 12 bộ kinh. Đức Phật giảng kinh, sử dụng 12 phương pháp khác nhau, trong văn học hiện tại nói là thể tài. Đức Phật giảng kinh có 12 loại thể tài. Đây chính là hết thảy kinh điển Ngài đã nói 49 năm.

Pháp thí lợi ích: Đây là pháp bố thí. Lợi ích này có thể trừ được vô minh âm cấu của chúng sinh. Âm cấu là phiền não. Phiền não Kiến Tư hoặc là cấu. Phiền não Trần Sa hoặc là âm. Vô minh trong câu này, bao gồm 3 loại đại phiền não. Chúng sinh sở dĩ làm chúng sinh, chính là bị 3 loại phiền não này trói buộc, không thể vượt ra được.

Trong kinh Hoa Nghiêm nói, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Chấp trước là cấu. Phân biệt là âm. Vọng tưởng là vô minh. 3 thứ này hại chúng ta vô lượng kiếp, ở trong lục đạo sinh tử luân hồi, khổ không kể xiết. Các vị nhất định phải hiểu rõ, ở trong lục đạo, chắc chắn thời gian ở trong 3 ác đạo dài, thời gian ở 3 đường thiện ngắn. Điều này phải biết. Lấy thọ mạng mà nói, thời gian của cõi Người rất ngắn. Suốt cuộc đời người sống được 100 tuổi không nhiều. Tuy sống được 100 tuổi, nhưng đem so với cõi Trời, đem so với cõi Trời Đao Lợi, thì chẳng là bao. Một ngày ở cõi Trời Đao Lợi, bằng 100 năm ở cõi Người. Người sống được 100 tuổi, bằng 1 ngày ở cõi Trời Đao Lợi.

Nếu như so với Tứ Vương thiên, 1 ngày ở Tứ Vương thiên là 50 năm ở cõi Người, bất quá chỉ là 2 ngày, 2 ngày ở Tứ Vương thiên. Đó là so với cõi trên, còn so với cõi dưới, cõi Ngạ quỷ, thọ mạng cõi Quỷ rất dài. Trong cõi Quỷ 1 ngày là 1 tháng ở nhân gian, cho nên cõi Nhân gian tế bái quỷ thần, mùng một, ngày rằm tế tự cúng dường, vừa đúng bữa sáng, bữa tối, bữa trưa. 15 ngày 1 lần cúng dường. Cõi Nhân gian 1 tháng bằng ở đó 1 ngày. Thọ mạng của họ, đại khái sống

1.000 tuổi là chuyện bình thường. Do đó, ở trong cõi Quỷ không dễ ra đâu. Nếu như đọa vào địa ngục, thì càng phiền phức. Ở địa ngục, sự sai biệt về thời gian rất lớn. Ngày xưa, thầy Lý khi giảng kinh nói cho chúng tôi nghe, đại khái ở nhân gian 2.700 năm, bằng địa ngục 1 ngày. Đó vẫn chưa phải là dài nhất đâu.

Nói cho đúng, thời gian và không gian đều không có thật, chỉ là khái niệm trừu tượng, đều từ trong tâm ý thức của quý vị biến hiện ra thôi. Cảm thọ bất đồng, khi chúng ta ở chỗ khổ nạn, một ngày như một năm, khi vui sướng, cảm giác thời gian trôi qua rất nhanh, một chút là hết mất rồi. Hết thảy chúng sinh trong mười pháp giới, đối với thời gian đều là tính chất này, ngày khổ cực rất khó vượt qua.

Chư Phật, Bồ tát ở thế gian này, giáo hóa chúng sinh, giảng kinh, thuyết pháp, có thể giúp cho chúng sinh đoạn phiền não, sinh trí tuệ. Nếu phiền não không đoạn, trí tuệ sẽ không sinh khởi. Quý vị có học nhiều thứ, đó chỉ là tri thức, chẳng phải trí tuệ. Tri thức không thể giải quyết được vấn đề sinh tử, không thể thăng hoa tính linh, nhưng trí tuệ thì có thể. Trí tuệ phát sinh từ tâm thanh tịnh, từ tâm bình đẳng. Tâm của quý vị không thanh tịnh, không bình đẳng, chỉ sinh phiền não, không sinh trí tuệ.

Nghe kinh, quý vị có thật sự nghe hiểu không? Thật sự được lợi ích không? Các vị cổ đức cao minh nhìn là biết liền. Nhìn từ đâu? Giống như tiêu chuẩn Ấn Quang Đại sư giảng: Một phần thành kính được một phần lợi ích, mười phần thành kính được mười phần lợi ích, xem tâm thanh tịnh của quý vị. Xem chỗ nào? Xem mức độ tự tư, tự lợi của quý vị, mức độ đối với danh văn, lợi dưỡng của quý vị. Nếu như quý vị xem nhẹ sự tự tư, tự lợi, xem nhẹ danh văn, lợi dưỡng, chắc chắn quý vị nghe kinh, thật sự nghe được tinh túy trong đó. Quý vị cảm nhận được.

Nếu như tâm danh lợi của quý vị nặng nề, dù đức Phật có giảng kinh, thuyết pháp ở đây, quý vị cũng nghe không vào. Vì sao vậy? Vì bị chướng ngại làm chướng ngại. Chẳng phải đức Phật không bình đẳng, mà là nghiệp chướng của mỗi người nặng nhẹ khác nhau. Người nghiệp chướng nhẹ rất dễ nhập môn, người này nghe hiểu, thật sự cảm nhận được; người nghiệp chướng sâu nặng, thì không được. Nghiệp chướng sâu nặng như chúng ta, thì phải làm sao đây? Chỉ có một cách duy nhất, là trường thời huân tu, ngày nào cũng nghe, nghe 20 năm, 30 năm; A! Hiểu rồi, nhập môn rồi. Nghe đến 40 năm, 50 năm, từ từ khế nhập, sinh pháp hỷ, thế thì cảm nhận được.

Thái độ học tập của không ít người ngày nay không được, nó không nghe vào tai điều gì hết. Nghe kinh một lần, ồ, bộ kinh này tôi nghe qua rồi; giảng lần thứ hai, tôi không nghe kinh này đâu, tôi đã nghe rồi mà. Thật sự nghe không hiểu!

Người xưa dạy: “Đọc sách ngàn lần, nghĩa tự nhiên thấy”. Chúng ta ngày nay nghe kinh một lần, thì làm gì có lý không khai ngộ! Vì sao vậy? Nghe một lần, thì tâm định rồi. Tâm thanh tịnh hiện tiền. Tâm thanh tịnh sinh trí tuệ, thì sẽ khai ngộ. Người này thật sự nhập cảnh giới.

Nhập cảnh giới cạn hay sâu, là mức độ tâm thanh tịnh của người này. Có được một phần thanh tịnh, thì thâm nhập được một phần; có được mười phần thanh tịnh, thì thâm nhập được mười phần. Vì sao vậy? Vì hết thảy kinh của đức Phật nói, đều từ Tự tính lưu xuất.

Nghe hiểu là quý vị khế nhập được Tự tính, lần như vậy thôi. Tự tính của đức Phật và Tự tính của mình là một Tự tính, chứ không phải là hai Tự tính. Những gì đức Phật làm là chính mình làm; những gì đức Phật nói cũng là chính mình nói; nhất định phải dùng tâm tự tính thanh tịnh mới có thể khế nhập.

Đoạn phiền não, khai trí tuệ, còn phải làm gì nữa? Phải được sinh ra trước Phật. Quý vị nên biết, vững vàng, nhanh chóng, thành tựu. Sinh trước Phật là vãng sinh về thế giới Tây Phương Cực Lạc, quý vị đã nhanh chóng thành tựu, không cần vô lượng kiếp, không cần tam đại A tăng kỳ kiếp, nhanh chóng thành tựu, sớm đắc Vô thượng Bồ đề, Vô thượng Chính đẳng Chính giác. Quý vị xem lợi ích như thế, nếu chẳng phải đức Phật xuất hiện ở thế giới này, thì quý vị làm sao có được?

Lợi ích thứ hai là, “Chư Phật Như Lai có thân tướng trang nghiêm, vô lượng diệu hảo. Nếu có chúng sinh xưng niệm quán sát, hoặc tổng tướng, hoặc biệt tướng, bất luận thân Phật hiện tại hay quá khứ, đều có thể trừ diệt tội tự trọng ngũ nghịch của chúng sinh, vĩnh viễn ra khỏi tam đồ”.

Đoạn trước nói, thứ nhất là khẩu nghiệp của đức Phật lợi ích chúng sinh. Nay thứ hai là thân nghiệp của đức Phật lợi ích chúng sinh. Chư Phật Như Lai có thân tướng quang minh. Người thời này nói gì? Nói từ trường. Người xưa nói là khí. Mỗi người có từ trường của riêng mình, mỗi người có khí riêng của mình.

Quý vị xem có người từ trường tốt, chúng ta tiếp xúc với từ trường của người đó, cảm nhận thấy yên ổn, có thể khiến tâm quý vị an định, ý tưởng niệm, đầu sáng suốt. Từ trường này nhiếp thụ người. Người thật sự có tu tập, có đức hạnh thì khác. Từ trường của Chương Gia Đại sư tốt, cảm nhận được rõ ràng. Vào đến cửa chỗ Ngài ở, không khí khác hẳn. Vào trong phòng khách của Ngài, là cảm nhận thấy rất an lạc, rất dễ chịu. Quý vị sẽ có cảm giác đó, quý vị sẽ không muốn đi. Tuy Ngài không nói một câu nào, nhưng mình cũng muốn ngồi thêm mấy phút nữa, hưởng thụ từ trường của Ngài. Đây chính là thần tượng quang minh mà Phật giáo đề cập. Trong khí công, thì nói là khí trường, có từ trường này khiến quý vị cảm nhận được.

Thân tướng của chư Phật, Bồ tát, thật sự là từ trường lợi ích cho hết thảy chúng sinh. Từ trường cũng biến hóa. Đoạn trước có nói, nhân người, nhân thời, nhân địa, nhân việc có khác, đều làm cho quý vị cảm nhận được diệu hảo, vô lượng diệu hảo. Đó là việc tự nhiên, có thể nhiếp thụ hết thảy chúng sinh.

Nếu có chúng sinh xưng niệm quán sát. Xưng là xưng danh, giống như chúng ta niệm danh hiệu Phật, Bồ tát: niệm Nam mô A Di Đà Phật, niệm Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát, Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát. Đó là xưng. Niệm là ức niệm (nhớ niệm), không niệm thanh tiếng. Trong tâm niệm, trong tâm nghĩ tưởng Phật. Chương Viên Thông nói, nhớ Phật niệm Phật, hiện tại vị lại chắc chắn thấy Phật. Ức niệm, trong tâm thật sự có.

Quán sát là có hình tượng của Phật, Bồ tát, hoặc tổng tướng, hoặc biệt tướng. Tổng tướng là thấy tướng toàn thân của Phật, Bồ tát; biệt tướng là nhìn thấy một phần, hoặc là nhìn thấy tướng nhục kế, vô kiến đỉnh tướng trên nhục kế, hoặc là thấy tướng bạch hào, giữa chân mày có hai cọng bạch hào quyện vào nhau, giống như viên châu. Hoặc là quán sát tướng thủ đầu của Phật, Bồ tát, đó là thấy biệt tướng. Bất luận thân Phật hiện tại hay quá khứ, điều này không cần hỏi. Hiện tại, là Phật, Bồ tát trụ thế; quá khứ thì chúng ta có thể tạo đắp hình tượng của Phật, Bồ tát, hoặc là vẽ hình tượng của Phật, Bồ tát.

Hiện nay, tiện nhất là chụp hình. Chúng ta nhìn thấy tượng Phật, Bồ tát rất trang nghiêm, tâm sinh hoan hỷ, chúng ta chụp hình lại, mang về nhà thờ cúng; đem hình tượng của Phật, Bồ tát ở đạo tràng mang về nhà cúng dường, đều có thể trừ diệt tội Tứ trọng, Ngũ nghịch của chúng sinh.

Nghĩa là sao? Có nghĩa là hết thảy pháp từ tâm tưởng sinh, đem tâm niệm bất thiện của quý vị chuyển biến. Tứ trọng là nói 4 giới trọng: Sát sinh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ. 4 tội này đều là địa ngục. Ngũ nghịch là tội địa ngục A tỳ: Giết cha, giết mẹ, giết A La Hán. Phật thì không giết được, phúc báo của Ngài lớn lắm, nhưng làm thân Phật chảy máu. Đó là Đề Bà Đạt Đa, khi còn tại thế muốn hại đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ông ta biết hàng ngày đức Phật đi khất thực, đều phải đi qua sườn núi này. Ông ta ở bên trên lăn một tảng đá rất lớn xuống, muốn đè chết Phật. Phúc báo của Phật lớn, Bồ tát Vi Đà hộ pháp. Khi đó, Ngài dùng chày kim cương chặn ngang cục đá, đập bể nát, một miểng đá văng vào chân đức Phật làm chảy máu, đó gọi là làm thân Phật chảy máu.

Cuối cùng là phá hoà hợp Tăng. Đây cũng là tội A tỳ địa ngục. Vì thế, phá hoại hình tượng của Phật giáo, cũng là tội phá hoà hợp Tăng. Ngày nay, chúng ta mang hình tượng xuất gia, sống trong xã hội này, nếu chúng ta làm những việc không đúng pháp, làm cho xã hội phê bình Phật giáo, hủy báng Phật giáo, lăng mạ Phật giáo, thì chúng ta phạm tội rồi. Do đó, tứ chúng đệ tử, phải nên thường nể mặt đức Phật Thích Ca Mâu Ni, không thể để cho đức Phật Thích Ca mất mặt.

Người xưa dạy, chúng ta nên dát vàng lên mặt đức Phật, đó là công đức. Y giáo phụng hành, để người khác tán thán đức Phật, cung kính Phật, đó chính là đã dát vàng lên mặt đức Phật rồi. Nếu như chúng ta làm không đúng pháp, vẫn còn tự tư, tự lợi, vẫn tham, sân, si, mạn; vẫn tổn người lợi mình, như vậy thì giống như bôi nhọ lên mặt Phật, làm cho xã hội khởi tâm oán hận Phật giáo, khởi tâm hủy báng Phật giáo, như vậy thì hỏng mất. Phá hoại hình tượng của Phật giáo, cũng thuộc Ngũ nghịch, tội đọa vào địa ngục A tỳ, quả báo rất nặng. Chúng ta thường thấy được tượng Phật, 32 tướng của đức Phật, có nghĩa là gì cần nên hiểu, 32 tướng là quả báo, 32 loại hành thiện chiêu cảm ra quả báo. Có thể tra trong đại từ điển Phật học để hiểu thêm.

Lúc trước, tôi giảng kinh Kim Cang. Trong kinh Kim Cang Giảng Nghĩa của Giang Vị Nông cư sĩ, giảng rất rõ ràng. Nghiệp nhân của 32 tướng, mỗi mỗi đều nói rõ. Tâm mươi loại tùy hình hảo, lưỡi của đức Phật thè ra, có thể trùm hết khuôn mặt, gọi là Quảng trường thiệt tướng.

Quả báo là gì? Đời đời kiếp kiếp không vọng ngữ. Đức Phật giảng trong kinh, nếu như một người có thể 3 đời không vọng ngữ, lưỡi có thể liếm đến chóp mũi. Đức Phật đời đời kiếp kiếp không vọng ngữ, cho nên có tướng tốt này. Tướng tốt do tu mà thành, đức Phật hiện ra 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, là dạy chúng ta phải tu nhân tốt. Nhân tốt, thì sẽ có quả báo tốt.

Người tâm tốt, thì tướng sẽ tốt. Hành vi tốt, thì thân thể khỏe mạnh. Thần tâm là đại biểu sự tu tập của chúng ta. Quý vị có thật sự tu tập không? Tu như thế nào? Nhìn thấy hình tượng của quý vị, thấy thân thể của quý vị là biết được thôi, không cần hỏi gì hết, nhìn là biết được. Công phu của quý vị, là ở trên khuôn mặt của quý vị, ở nơi hành vi của quý vị, làm sao quý vị gạt người ta được, cho nên thường xưng niệm quán sát tượng Phật. Nghĩa là sao? Nghĩa là 16 quán trong kinh Quán Vô Lượng Thọ có nói.

Quý vị thật sự có thể tu; có thể tu chính là ngưỡng mộ đức Phật, cung kính đức Phật, quý mến đức Phật, học tập đức Phật. Mình phải giống như Ngài, thế thì 4 trọng tội và ngũ nghịch tội của quý vị, đều được hoá giải, ra khỏi tâm đồ, vĩnh viễn không bao giờ đọa vào 3 nẻo ác nữa.

“Tùy ý mong muốn, thường sinh Tịnh Độ cho đến thành Phật”. Đây là nói về lợi ích, có thể tùy theo ý của mình. Quý vị muốn về thế giới Tây Phương Cực Lạc, chắc chắn quý vị sẽ được mãn nguyện. Thường sinh Tịnh Độ cho đến ngày thành Phật, đó là lợi ích thân nghiệp của đức Phật.

Lợi ích thứ ba là của ý nghiệp. “Đức Phật khuyên răn phụ vương hành niệm Phật Tam Muội”. Đó là khuyên hết thảy chúng sinh tu pháp môn niệm Phật. Dùng phương pháp gì để khuyên? Ngài khuyên cha của Ngài, quan hệ phụ tử quá thân thiết. Ngài khuyên phụ thân của mình tu pháp môn này, chắc chắn là pháp môn tối cao, tối thắng. Cúng dường phụ mẫu, thì dùng pháp môn Niệm Phật cúng dường phụ mẫu là đúng nhất. Ngài không khuyên tu pháp môn nào khác, mà tu niệm Phật Tam Muội, làm mẫu mực cho chúng ta xem. Vì thế, đức Phật xuất hiện trên thế gian này, có 3 loại lợi ích của thân, khẩu, ý.

Dưới đây có giải thích: “Phụ vương bạch Phật: Phật địa quả đức, Chân như, Thật tướng, đệ nhất nghĩa Không, nguyên nhân gì không thấy các đệ tử thực hành như vậy?”.

Đây là sự thành tựu chân thật của Như Lai quả địa. Vì sao thầy không kêu học trò của thầy học đi?

“Phật bảo phụ vương, quả đức của chư Phật, có vô lượng cảnh giới thâm diệu, thần thông giải thoát, chẳng phải cảnh giới mà phàm phu có thể làm được, cho nên khuyên phụ vương thực hành niệm Phật Tam Muội”.

Điều này, chúng ta chẳng thể không biết, Chân như thật tướng, đệ nhất nghĩa Không, ai chứng được cảnh giới này? Pháp thân Bồ tát chứng được. Vì sao vậy? Vì Ngài đã bỏ hết vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, ngay cả tập khí phân biệt, chấp trước cũng không có, chỉ có tập khí Vô thỉ vô minh là chưa đoạn tận.

Họ tu tập, chính là Chân như thật tướng, đệ nhất nghĩa Không. Ở đâu vậy? Ở Thật Báo Trang Nghiêm Độ, chẳng phải trong mười pháp giới, càng không phải ở trong lục đạo. Do vậy, đức Phật đã nói với phụ vương rất hay: Quả đức của chư Phật, có vô lượng cảnh giới thâm diệu, thần thông giải thoát, đều hiển hiện ở Thật Báo Độ. Hiển hiện ở chỗ chúng sinh có cảm, Phật, Bồ tát có ứng, đó đều là Pháp thân Bồ tát, ứng hóa ở khắp pháp giới hư không giới. Trong mười pháp giới nơi quốc độ của chư Phật, vì chúng sinh mười pháp giới mà làm 3 loại lợi ích giúp chúng sinh diệt tội, được phúc, phá mê khai ngộ, hồi quy tự tính. Đó chẳng phải là cảnh giới của phàm phu. Mười pháp giới, Tứ thánh pháp giới, cũng là phàm phu. Đó là ngoại phàm, họ còn chưa làm được, huống gì là lục đạo nội phàm.

Do đó, đức Phật khuyên phụ vương thực hành niệm Phật Tam Muội. Vì sao? Vì niệm Phật Tam Muội, vững vàng, phương tiện, nhanh chóng, dễ dàng tu tập, thành tựu không gì sánh bằng. Phiền não tập khí chưa đoạn, chỉ cần khi lâm mạng chung, quý vị thật sự điều phục được nó, phiền não tạm thời không khởi tác dụng, thì có thể vãng sinh.

Một niệm hàng phục, mười niệm hàng phục, người này sinh về thế giới Cực Lạc. Sinh về thế giới Cực Lạc, tập khí phiền não vĩnh viễn không tái phát. Hơn nữa, ở thế giới Tây Phương Cực Lạc, Phàm Thánh Đồng Cư Độ hạ hạ phẩm vãng sinh, sẽ được hưởng thụ quyền lợi của A Duy Việt Trí.

Thật là không thể nghĩ bàn. Ngài đã đem pháp môn tối thắng không gì bằng này, cúng dường phụ mẫu, khuyên răn phụ mẫu tu tập, cũng là khuyên hết thảy chúng sinh có duyên. Thế nào gọi là có duyên? Họ chịu tin, chịu phát nguyện, chịu làm, gọi là người có duyên. Người có duyên chắc chắn một đời được độ.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 49)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 48)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 47)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 259
    • Số lượt truy cập : 8564920