Người xưa phân nói thành Nhất Thừa Giáo, cao hơn Đại thừa một bậc. Nhất Thừa Giáo người xưa công nhận ba bộ kinh là: kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa, kinh Phạm Võng. Rất tiếc là kinh Phạm Võng không truyền vào Trung Quốc. Truyền vào Trung Quốc chỉ có một phẩm, Bồ tát Tâm Địa Giới Phẩm, toàn bộ quyển kinh không truyền đến. Hoa Nghiêm nghĩa là Tông Hiền Thủ tôn sùng là Biệt Giáo Nhất thừa. Biệt là đặc biệt. Những điều trong bộ kinh này nói, trong những bộ kinh khác đức Phật chưa từng nói. Đây là Nhất thừa. Điều gì đức Phật chưa từng nói qua? Là Sự sự vô ngại. Lý sự vô ngại thì có, trong những kinh khác có nói, nhưng Sự sự vô ngại thì không có, cho nên đây là điều duy nhất có trong kinh Hoa Nghiêm, gọi là Biệt Giáo Nhất thừa, “Toàn viên chi giáo”(Giáo hoàn toàn Viên)
“Ta hu, phàm phu liệt đăng Bổ Xứ, kỳ xướng cực đàm, bất khả trắc độ, Hoa Nghiêm sở bẩm, khước tại thử kinh, nhi thiên hạ cổ kim, tín tiên nghi đa, từ phồn nghĩa thực, dư duy hữu phẫu tâm lịch huyết nhi dĩ” (Than ôi! Phàm phu được lên ngôi Bổ Xứ, đề xướng ấy tột cùng, không thể đo lường, những gì nói trong Hoa nghiêm, lại đều ở kinh Vô Lượng Thọ này. Nhưng mọi người xưa nay, tin ít nghi nhiều, chữ nhiều nghĩa thật, chỉ có mình ta mổ tim, chảy máu để tin mà thôi). Mấy câu này là của Ngài Ngẫu Ích nói trong cuốn Di Đà Yếu Giải. “Ta hu” là từ cảm thán, ca tụng Pháp môn Tịnh độ, bạc địa phàm phu, nếu được như lý như pháp mà tu tập pháp môn này, đều có thể một đời chứng được Bồ tát Bổ Xứ; Bổ Xứ là Đẳng Giác.
Ngày nay, quả địa cầu này có vấn đề, có nhiều tai nạn, đây là Sự. Vì sao quả địa cầu này lại có nhiều tai nạn như thế? Đó là Lý. Hiểu được rõ lý rồi, thì quả địa cầu này muốn phục hồi lại bình thường cũng không phải là chuyện khó. Vì vậy, các nhà khoa học báo cáo, mấy ngày trước chúng tôi xem được thông tin của Liên Hiệp Quốc, đều không kiêng kỵ gì, đều đã nêu ra những vấn đề nghiêm trọng này. Nêu ra sự, nhưng họ không nói về Lý rõ ràng. Nếu như nói về Lý rõ ràng, thì về Sự chúng ta sẽ có phương pháp đối phó. Có thể hóa giải tai nạn được chăng? Được. Bệnh tật có thể chữa khỏi được không? Được. Chắc chắn được.
Đức Phật đăng tòa thuyết pháp, thính chúng có đến vài ba ngàn người. Mọi người đều nghe được rõ ràng, tất cả đều không hoài nghi. Cảnh giới này, chúng ta rất khó tưởng tượng. Đức Phật có năng lực này hay không? Chúng ta tin là có. Thính chúng ngày đó không giống như người bây giờ, tuy có bậc hạ hạ căn, nhưng chúng ta có thể lý giải được. Bậc hạ hạ căn thời đó, đại khái còn giỏi hơn nhiều so với bậc thượng thượng căn ngày nay. Vì sao vậy? Vì tâm người ta thanh tịnh. Người thời nay tâm trạng bồng bột, không có định công đó. Người thời xưa trung hậu lão thành, ít vọng niệm, tâm thanh tịnh, cho nên việc thuyết thính đó sự cảm ứng không thể nghĩ bàn. Đó là một đời thời giáo.
Thế giới Tây Phương Cực Lạc rất đặc thù. Ở nơi đó không có tần số không gian, tam bối cửu phẩm bốn cõi, ở chung một chỗ không có sai biệt, cho nên sinh về Đồng Cư Độ, cũng bằng sinh về Thật Báo Độ, như Quan Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền là các vị Bồ tát ở Thật Báo Độ. Phàm Thánh Đồng Cư Độ hạ hạ phẩm vãng sinh ở thế giới Cực Lạc, cũng thấy được các vị Bồ tát này. Hàng ngày, họ sống cùng Bồ tát, đây là chỗ thù thắng của thế giới Cực Lạc so với sát độ của chư Phật mười phương. Vì thế đức Phật Thích Ca Mâu Ni khuyên chúng ta cầu sinh Tịnh độ. Chư Phật mười phương đều tán thán pháp môn này.
Chúng ta xem đoạn Đinh - Phán giáo. “Đệ nhất, tứ giáo dữ ngũ giáo, cổ kim chư sư phán phần giáo tướng giả phàm hữu thập nhị gia, kỳ trung tối trước giả nãi Thiên Thai sở lập chi tứ giáo, dữ Hiền Thủ tông chi ngũ giáo” (Thứ nhất, Tứ giáo và Ngũ giáo, các sư xưa nay phân chia giáo tướng gồm 12 nhà, trong đó nổi bật nhất là Tứ giáo của Thiên Thai và Ngũ giáo của Hiền Thủ Tông thiết lập). Phán giáo, cũng có nghĩa là sau này chư vị Tổ sư phát minh ra, tam tạng, nhị tạng, ngũ thời, phân giáo. Vào thời của đức Phật Thích Ca Mâu Ni hoàn toàn không có. Sau này, chư vị Tổ sư, đem sự dạy học của đức Thế Tôn trong suốt 49 năm ra nghiên cứu. Nghiên cứu rốt cuộc Ngài đã dùng phương pháp nào? Nghiên cứu về những thứ đó, cho nên đã đem phân ra rất nhiều khoa mục. Đối với các vị học Phật đời sau này mà nói, thật sự tiện lợi rất nhiều. Nhưng nói tóm lại, những thứ này rất đáng để tham khảo.
Người có trình độ cao, thì nói pháp cao cho họ. Người có trình độ thấp, thì nói cho họ pháp môn cần tu học trong cuộc sống hàng ngày. Vì người mà khác, vì thời mà khác, vì nơi chốn mà khác, vì sự việc mà khác, không có pháp nhất định. Vì vậy, chỉ cần thấy được đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thì chắc chắn quý vị được mãn nguyện. Đó là điểm tuyệt vời của đức Phật. Tất cả pháp Ngài nói ra, bất luận là cao thấp, sâu cạn, đều từ tự tính lưu xuất ra. Đức Phật không bao giờ nói rằng, xem con người này, mình nên nói gì với họ. Đức Phật không có tâm niệm như vậy. Vừa tiếp xúc là hiểu rõ, là thông đạt rồi. Quý vị hỏi hay không hỏi, Ngài cũng đều biết hết. Quý vị đang nghĩ điều gì, quý vị muốn cầu điều gì, quý vị muốn được điều gì, Ngài hoàn toàn biết rõ. Đức Phật một đời hằng thuận chúng sinh, tùy hỷ công đức.
Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Thế Tôn thường nói, tất cả chúng sinh vốn là Phật. Phật là gì? Là Đại từ Đại bi. Do đó, ngày xưa có người hỏi rằng, thế nào là Phật giáo? Chư vị tổ sư trả lời họ bằng 2 câu: “Từ bi vi bản. Phương tiện vi môn”. Đó chính là Phật pháp Đại thừa.
Phương tiện là gì? Phương tiện, nghĩa là dùng phương pháp thích hợp nhất, để thể hiện tâm từ bi. Từ bi, Bồ đề, Phương tiện, đều sẵn có đầy đủ trong tự tính. Khi Đại sư Huệ Năng khai ngộ nói: “Hà kỳ tự tính, bản tự cụ túc”, không thiếu điều gì. Tâm từ bi của chúng ta đi đâu mất rồi? Tâm từ bi bị trật đường rày rồi, mê rồi. Sau khi mê bị trật đường rày rồi. Trật thành cái gì đây? Trật thành tự tư, tự lợi. Tự tư, tự lợi nếu như phục hồi trở lại bình thường, thì đó chính là Đại từ Đại bi.
Đức Phật không độ người vô duyên. Vô duyên nghĩa là họ không tiếp nhận, họ không thể y giáo phụng hành. Nếu họ tiếp nhận, nếu họ y giáo phụng hành, thì chẳng có người nào là không được độ. Trước đây, chúng ta có học đến Ngũ nghịch, Thập ác, khi lâm chung một niệm đến mười niệm đều được vãng sinh. Ngữ khí kiên định như thế, khiến chúng ta thấy rồi không còn chút nghi ngờ nào nữa. Đó là Tính đức khởi dụng.
Vì thế, chúng ta nhất định phải biết, 6 từ hồng danh chứa trọn đầy đủ các đức. Vì sao vậy? Vì vượt tình lìa kiến. Phàm phu hữu tình lục đạo chấp, Tứ thánh pháp giới không lìa kiến. “Vượt tình lìa kiến”, nghĩa là siêu việt mười pháp giới; siêu tình là siêu việt lục đạo; siêu kiến là siêu việt Tứ thánh pháp giới, cho nên toàn thể, thể là tự tính.
Sinh diệt và không sinh diệt, hợp lại là một không thể tách rời, cho nên sinh diệt vĩnh viễn không gián đoạn. Nguyên nhân vì sao vậy? Vì tính bất sinh bất diệt, thì làm sao có gián đoạn được. Chỉ cần ly tướng. Ly ở đây là không chấp trước tướng, không phân biệt. Ở trên tướng không khởi tâm động niệm, thì gọi là ly tướng. “Ly hết thảy tướng, tức hết thảy pháp”. Chỉ cần quý vị không phân biệt, không chấp trước, không khởi tâm, không động niệm, thì hết thảy vạn pháp chẳng pháp nào không phải là tự tính. Lúc này, cảnh giới tâm hiện thức biến, quý vị hoàn toàn thấy được. Sớ Sao dùng pháp môn Niệm Phật, dùng pháp môn này phục hồi tự tính, bởi vì quý vị vốn là Phật, bây giờ lại niệm Phật. Vốn Phật là nhân, bây giờ niệm Phật là duyên. Nhân gặp được duyên, thì quả báo sẽ hiện tiền. Quả báo này nghĩa là quý vị nhập cảnh giới Phật.
Ngày ngày, niệm Phật, hữu khẩu vô tâm, không thể tương ứng. Hàng ngày, cũng ở trong Niệm Phật đường, niệm ngàn tiếng, vạn tiếng, nhưng không tương ưng, khi lâm chung vẫn còn sợ chết, là chưa được. Hạng người này rất nhiều. Người khác có nhìn thấy, cũng không cần phải để trong lòng, mà quay lại hỏi bản thân mình, mình làm được chưa?
Ngày nay, đức Phật A Di Đà đến tiếp dẫn tôi, tôi có thật sự sinh tâm hoan hỷ không? Thật sự muốn đi theo Ngài không? Thật sự buông bỏ thân tâm thế giới trước mặt chăng? Danh lợi, thân tình, triệt để buông bỏ được chăng? Hết thảy đều đến để khảo nghiệm chúng ta, rốt cuộc chúng ta có thật sự tu tập hay không? Thật tu, thì thật được vãng sinh.
Tâm của đức Phật giống như tâm của cha mẹ vậy. Cha mẹ đối với con cái, chư Phật đối với chúng sinh, tâm trạng như nhau. Không gì ngoài việc mong cho chúng sinh sớm có ngày thành Phật. Có thể thành Phật được chăng? Đáp án là khẳng định thành, không có một chút hoài nghi nào hết. Vì sao vậy? Vì hết thảy chúng sinh vốn là Phật.